*Tiểu Chủng viện An ninh:
Còn gọi là Nhà trường An ninh, tọa lạc trên một khu đất khá rộng và quang đảng tại làng An ninh. Theo sách Hành Hương của ông Trần quang Chu: “Năm 1783, Ðức cha Gioan Labartette thành lập Tiểu chủng viện ở Di loan. Tháng 8-1798 vua Cảnh Thịnh (Tây sơn) bắt đạo nên chủng viện phải giải tán. Năm 1801, Nguyễn Ánh phục quốc, năm 1802 lên ngôi hoàng đế lấy hiệu Gia Long, đem gia quyến và hoàng tử Ðảm (10 tuổi, sau nầy nối ngôi hiệu là Minh Mạng) ra thăm quê ngoại ở làng Cổ trai (kế làng An ninh). Dịp nầy, để tỏ lòng biết ơn Ðức cha Pigneau (Bá đa lộc), Nguyễn Vương đã dành cho Ðức cha Gioan Labartette một cuộc viếng thăm kính trọng và bất ngờ. Dịp nầy Nguyễn Vương ban cho Ðức Cha một sở đất quang ánh và rộng rải tại làng An ninh để xây dựng chủng viện”.
Tiểu chủng viện An ninh là nơi đào tạo linh mục trong giai đoạn 8 năm đầu, sau đó vào học ở Ðại chủng viện Huế 6 năm rồi mới thụ phong linh mục. Tiểu chủng viện An ninh cũng giúp giáo huấn chủng sinh cho Giáo hội Công giáo Lào. Một ít chủng sinh thụ giáo ở đây sau nầy nổi danh như Ðức cha Hồ ngọc Cẩn, Giám mục Giáo phận Bùi chu; Ðức cha Ngô đình Thục, Giám mục Giáo phận Vĩnh long và Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế; Ðức cha Lê hữu Từ, Giám mục Giáo phận Phát diệm; Ðức cha Nguyễn văn Hiền, Giám mục Giáo phận Sài gòn và Ðà lạt; Ðức Hồng y Nguyễn văn Thuận, Giám mục Giáo phận Nha trang, Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài gòn, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình Tòa thánh Vatican; Ðức cha Nguyễn như Thể, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế; Linh mục Nguyễn văn Thích, giáo sư Hán văn và Triết học Ðông phương tại Ðại học Huế, Ðà lạt và Sài gòn; Linh mục Nguyễn văn Lập, Viện trưởng viện Ðại học Ðà lạt. Một ít chủng sinh rời chủng viện sau nầy dấn thân vào đời cũng xuất chúng, như:
-Ông Ngô đình Khả, học ở Tiểu chủng viện An ninh sau đó chuyển đến Chủng viện Pénang (Mã lai), Thượng thư bộ Công. Ông được người đời truyền tụng “Ðày vua không Khả, đào mã không Bài” (Năm 1907, Thượng thư Ngô đình Khả phản đối việc lưu đày vua Thành Thái sang đảo Réunion. Năm 1908 Thượng thư Nguyễn hữu Bài chống kịch liệt Khâm sứ Mahé (Pháp) đòi khai quật mộ vua Tự Ðức để lấy vàng ngọc). Ông Ngô đình Khả là người đã vận động thành lập trường Quốc học Huế, niên khóa đầu tiên 1896-1897 vua Thành Thái đích thân chủ tọa. Ông cũng là người vận động thành lập một tư thục cho con em lương giáo, lấy tên là trường Pellerin Huế, khai giảng khóa đầu tiên năm 1904 do sư huynh dòng Lasan điều khiển.
- Ông Nguyễn hữu Bài, Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hộ sung Cơ mật viện Ðại thần dưới triều vua Khải định. Ông được người đời truyền tụng “Ðày vua không Khả, đào mã không Bài”
- Ông Ngô đình Nhu, chính trị gia, người đã tận trung tận nghĩa giúp bào huynh của mình (Tổng thống Ngô đình Diệm) bảo vệ chủ quyền quốc gia và nền độc lập của Nước Nhà.
- Ông Lê quang Tung, cựu Tư lệnh Lực lượng Ðặc biệt của Quân đội Việt nam Cộng hòa, một gương trung can, đã tử trung, không chịu làm tay sai cho ngoại bang.
Tiểu chủng viện An ninh có một cơ ngơi bề thế gồm 2 dãy nhà lầu làm nơi ở và học cho các giáo sư và chủng sinh, 1 nhà thờ chính, 1 nhà thờ nhỏ gọi là nhà thờ Ðức Bà và 1 gọi là nhà thờ Thánh An-tôn, nhà chơi, nhà khách, nhà ăn, nhà bếp, lẫm lúa (kho thóc), v.v.......... Vua Khải Ðịnh đã một lần tới thăm và ban cho Tiểu chủng viện nầy một bức hoành phi bốn đại tự “ Phụ Thế Trưởng Nhân “
Qua các biến cố dồn dập bắt đạo liên miên, đến thời an bình kiến thiết xây dựng tiếp đến thời kỳ chiến tranh tàn phá, Tiểu chủng viện An ninh tồn tại đến tháng 8 năm 1954 di cư, chuyển vào Huế. Vị Giám đốc cuối cùng của Chủng viện An ninh là cha An-rê Bùi quang Tịch, một linh mục thánh thiện và nhân đức. Khi bị ngứa không gãi, đau răng không dùng thuốc giảm đau, sống khổ hạnh, chịu đựng, khắc khổ. Khi về già ngài vào tu ở dòng khổ tu Xi tô Thủ đức.
*Phước viện Mến Thánh Giá Di Loan:
Phước viện có từ lâu, cơ sở bị Văn thân tiêu hủy hoàn toàn tháng 9 năm 1885, được linh mục Alfred Maria Eugenio Barthe Lémy (cố Mỹ) làm quản xứ Di loan vào năm 1887, đã cho tu tạo lại phước viện nầy. Sau năm 1918, linh mục Léopold Cadière (cố Cả) giúp củng cố và phát triển tu viện nầy. Phước viện Di loan sống âm thầm trong một khuôn viên khá rộng, cây cối rợp bóng quanh năm. Hằng ngày, các Dì Phước, luôn đi cặp đôi, đến các trường học giáo xứ để dạy giáo lý và khai tâm quốc ngữ miễn phí cho các em nhỏ, nhờ công khai trí nầy mà tất cả người công giáo hạt Ðất Ðỏ đều biết đọc chữ quốc ngữ. Các nữ tu lo tu hành nhưng cũng góp phần vào việc phát triển kinh tế, như sản xuất muối ăn, nuôi tằm, quay tơ, dệt lụa. Thuở ấy các loại vải nội hóa khổ ngắn, nhưng phước viện Di loan đã dệt thao, lụa khổ rộng như hàng ngoại hóa nhờ biết cải biến khung cửi (máy dệt bằng tay). Hàng tơ lụa của Phước viện nầy có thời đã nổi tìếng trên thị trường Ðông dương, gọi là “Hàng Tơ Lụa Cửa Tùng”. Hàng nầy còn xuất khẩu sang Pháp và quanh vùng Ðông Nam Á nữa. Phước viện cũng cung cấp các loại thuốc tây thay các loại cao đơn hoàn tán để trị các bệnh thông thường như cảm mạo, nhức đầu, đau bụng, ghẻ chốc,v.v...
Sau ngày đất nước bị chia đôi, 01-08-1954, Phước viện Mến Thánh Giá Di loan đã dời vào thánh địa La vang, Quảng trị.
* Dòng Xi tô Phước sơn:
Linh mục Henri Denis, tên Việt là Cố Thuận, người Pháp, giáo sư Tiểu chủng viện An ninh, năm 1918 thành lập dòng khổ tu “Ðan viện Xi tô” đầu tiên tại Việt nam trên khu đất hoang vắng thuộc tổng Thủy ba, phủ Vĩnh linh, bên rìa Trường sơn. Khoảng vài chục năm sau, Dòng nầy phát triển thêm dòng Châu sơn ở Phát diện (Bắc Việt). Năm 1949, vùng Phước sơn mất an ninh, ngày 26-04-1953, cha Bề Trên (người Việt), 2 Cha khác và 2 Thầy bị bắt giam tại mật khu Ba lòng, Quảng trị, Nhà Dòng bị Việt minh chiếm, các đan sĩ di tản vào Sài gòn và lập các đan viện mới như Phước lý ở Thủ đức, Phước sơn ở Phúc lộc (Bà rịa),Thiên phước ở Vũng tàu, Phước vĩnh ở Trà vinh (Miền Tây).
Một vài Giáo xứ điển hình:
Họ Di loan: Di loan vừa là tên giáo xứ vừa tên làng hành chánh. Theo Danh Sách Xã Thôn Trung Kỳ của Phủ Thủ Hiến Trung Phần Việt Nam thì làng nầy tên là Di Luân thuộc tổng Hiền lương, phủ Vĩnh linh, tỉnh Quảng trị. Di loan là quê quán của Ðức cha Lê hữu Từ, Giám mục Phát diệm. Phong thổ Di loan khá đẹp, mặt tiền làng hướng về phía nam, nơi dòng Hiền lương (Bến hải) lững lờ chảy ra biển. Dọc bờ sông, tầng thấp làm ruộng muối, tầng cao ruộng lúa, đến một con đường khá rộng suốt từ đầu đến cuối làng. Sau con đường nầy là cư dân, nhà cửa vườn tược xanh tươi. Giữa làng, phía mặt tiền nhìn ra sông, một ngôi thánh đường trang nghiêm cổ kính kiến trúc theo nghệ thuật gothique của châu Âu. Ngày lễ lớn và chúa nhật, ba chuông cùng đổ hồi dồn dập ngân vang khắp vùng hải ngạn Cửa Tùng. Cai quản họ đạo nầy là linh mục Léopold Cadière, tên Việt là Cố Cả, thuộc hội Thừa sai Ba lê (Mission Étrangère de Paris), một học giả uyên bác, đến Việt nam năm 1892, giáo sư Tiểu chủng viện An ninh, Cửa Tùng 1893-1894, Quản xứ Di loan kiêm Quản hạt Ðất Ðỏ từ tháng 9-1918 đến tháng 3-1945, bị Nhật bắt giam 5 tháng trong dịp Nhật đảo chánh Pháp tại Việt nam. Ngày 19-12-1946 bị Việt minh bắt đi an trí tại Vinh (Xã Ðoài) cho đến ngày đình chiến được trả tự do và về hưu trí tại nhà Hưu dưỡng Tòa Giám mục Huế. Năm 1942. cố Cả mừng Kim Khánh (50 năm linh mục) tại Di loan, dịp nầy được chính phủ Pháp tặng Bảo Quốc Huân Chương (Légion d’honneur) và huy chương khác của Chính phủ Nam Triều, bởi ngài là nhà bác học qua những công trình khoa học, văn hóa, xã hội.. Năm 1990, Chính quyền Hà nội đã vinh danh Lépold Cadière là “Nhà Huế Học” và “Nhà Việt Nam Học” do những công trình nghiên cứu của ngài đã làm cho thế giới biết đến văn hóa, nghệ thuật và lịch sử Việt nam.
Tháng 8 năm 1954, Di loan đã di cư vào Nam và định cư tại An đôn, Quảng trị, đến mùa hè đỏ lữa 1972, phân tán nhiều nơi trên lãnh thổ Việt nam Cộng hòa.
Họ An ninh: An ninh là một làng công giáo toàn tòng. An ninh vừa là tên làng hành chánh vừa là tên giáo xứ. Còn có tên gọi khác là làng Phường, Họ Phường. Người An ninh tính tình hiền hòa. Nhà thờ họ nầy khá lớn, kiến trúc dáng vẻ cổ kính, mặt tiền trang trí hoa văn bằng mảnh kính mảnh sành của dĩa bát xưa đập vỡ. Nhà thờ An ninh là nơi Giáo hạt Ðất Ðỏ tổ chức kiệu Mân cội (Môi khôi) mỗi năm với hàng ngàn giáo hữu từ nhiều giáo xứ, đoàn kiệu kéo dài hàng cây số, chuông, chiêng, trống đại, trống cà rầng, cờ phướn rợp trời.
Hai họ Di loan và An ninh đã cung cấp cho Giáo hội nhiều giáo sĩ và tu sĩ.
Họ An do Tây: Là một làng công giáo toàn tòng. An do Tây là tên làng hành chánh vừa là tên giáo xứ. An do Tây có một Hội Hát (Ca đoàn) có vẻ chuyên nghiệp, hát la-tinh với đàn phong cầm (orgue) khá hay, có đội Nghĩa Binh Thánh Thể rất linh hoạt. Nhà thờ An do tây có tháp cao vút tưởng chừng như thấu từng mây.
Họ Ba Ngoạt: Là một giáo xứ lớn, đông giáo dân của ba làng Ba bình, Bình đức và Hòa lạc thuộc tổng Hồ xá phủ Vĩnh linh hợp thành. Người giáo dân Ba ngoạt tính tình hiền hòa chân thật, giữ đạo sốt sắng, trung kiên, là nơi cung cấp cho giáo hội nhiều linh mục và tu sĩ nam nữ. Di cư 1954, Ba ngoạt định cư tại La vang Trung. Mùa hè đỏ lửa 1972, La vang Trung tản mác nhiều nơi ở miền Nam Việt nam: Sông pha (Ninh thuận), Suối nghệ ((Bà rịa), Cam ranh (Khánh hòa), Bình tuy, Quảng biên (Biên hòa).....
Hai họ Cao xá và An lộc: Cao xá có ngôi thánh đường đẹp, giáo dân sống đạo đức, sốt sắng, kinh tế sung túc nhờ có nhiều ruộng. Cao xá là quê quán của cụ Nguyễn hữu Bài, Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hộ, sung Cơ Mật viện Ðại thần dưới triều vua Khải Ðịnh.
An lộc là họ nhánh của Cao xá, có nhiều ruộng tốt, dân số tuy ít nhưng phú túc, sống đạo trung kiên. Hai họ nầy thuộc tổng Xuân hòa, ở bờ nam sông Bến hải nên khỏi di cư 1954, nhưng trong chiến tranh 1960-1975, giáo dân hai họ nầy phải di tản đến tạm trú tại Hà thanh (Gio linh) và Cam lộ, đến mùa hè đỏ lửa 1972 phải phân tán đến định cư tại Suối nghệ (Bà rịa), Sông pha (Ninh thuận), Quảng biên (Biên hóa). v.v...
Bốn họ An bằng, An lễ, An ngãi, An trí: Có nhiều Nữ Tu ở dòng Mến Thánh Giá Phủ cam (Huế). Di cư 1954, định cư tại La vang hữu. Hè đỏ lửa 1972 phân tán đến nhiều địa phương khác như Phước long, Long khánh, Cam ranh (Khánh hòa), Suối nghệ (Bà rịa), Bình tuy, v.v...
Họ Hòa ninh: Nơi cung cấp cho Giáo hội nhiều giáo sĩ và tu sĩ nam nữ. Giáo dân Hòa ninh có gốc từ ba làng: An du bắc, An ninh và Di loan. Di cư 1954 định cư tại La vang thượng. Hè đỏ lửa 1972 tản mác nhiều nơi như Suối nghệ (Bà rịa), Sông pha (Ninh thuận), Bình tuy,v.v.....
Họ Loan Lý: Trong số 19 giáo xứ thuộc Giáo hạt Ðất Ðỏ của Giáo phận Huế di cư vào tháng 8 năm 1954, 18 giáo xứ định cư tại Quảng trị đều tan rả do chiến cuộc mùa hè 1972, phân tán đến định cư tại các địa điểm “Khẩn hoang Lập ấp” như Sông pha (Ninh thuận), Vĩnh linh (Cam ranh), Bình tuy, Quảng biên (Biên hòa), Bầu cá, Thái thiện (Long khánh) hay các khu Dinh điền Phước long, Bình long, Tánh linh, v.v... và nhập vào Giáo phận địa phương. Duy chỉ Giáo xứ Loan lý tồn tại đến nay tại Lăng cô thuộc Giáo hạt Hải vân, Giáo phận Huế.
Loan lý trong thời kỳ sơ khai chỉ là một xóm đạo, sau phát triển thành họ đạo, có tên là họ Biện Hoản (Biện là một chức nhỏ phụ trách một số việc trong họ đạo, Hoản là tên của người phụ trách). Sau đó lấy tên chính thức là “ Luân lý”, theo sổ bộ viết bằng hán nôm cuả Họ gọi là “Hội Giáo Luân Lý”.
Theo niên lịch của Ðịa phận Huế từ năm 1945 trở lên trước, ở mục sinh quán và bổn sở (Họ phụ trách) của các linh mục, năm thì ghi là Luân lý, năm khác lại là Loan lý.
Giáo xứ Loan lý do giáo dân hai làng hợp lại: 2/3 giáo dân thuộc làng Di loan, mang dòng họ Hoàng, họ Lê; còn 1/3 giáo dân thuộc làng An du Bắc, mang họ Dương, họ Nguyễn và họ Phùng. Nói cách khác, ở Loan lý, những người mang họ Hoàng và họ Lê là gốc làng Di loan, những ai mang họ Dương, họ Nguyễn, họ Phùng là gốc làng An du Bắc
Loan lý còn tồn tại đến nay là bởi khi di cư, được linh mục Phan văn Cơ dẫn dắt đến định cư trên bãi cát Lăng cô dọc quốc lộ 1 dưới chân đèo Hải vân, nơi đây phong cảnh hữu tình, biển sâu, núi cao, đầm rộng, có nhà nghỉ mát của vua Bảo Ðại, của Linh mục già Giáo phận Huế.
Lăng cô cũng là địa điểm lịch sử: Khi vua Hàm Nghi bị bắt ở Hà tịnh được đưa về Thuận an (Huế), sau đó được chuyển xuống tàu vào Lăng cô, rồi từ Lăng cô Vua lên tàu La Comette vào Sài gòn. Từ Sài gòn xuống tàu sang Alger. (Theo sách 13 Vua Nhà Nguyễn).
Loan lý ban đầu được Cha Sở Di loan coi sóc, nhưng kể từ năm 1921, các Linh mục sau đây quản xứ:
Lm.Mathêô nguyễn hữu Oai 1921-1923
Lm.Giuse Phạm văn Huấn 1923-1928
Lm.Phêrô Nguyễn văn Giáo 1928-1930
Lm.Phêrô Ðổ khắc Tuế 1930-1936
Lm.Giuse Nguyễn văn Kiểu 1936-1937
Lm. Ðôminicô Phạm văn Yến 1937-1941
Lm.Phanx-Xavie Trương văn Lương 1941-1947
Lm Phan văn Ngãi (hưu trí) 1947-1948
Lm.Giacôbê Phan văn Cơ 1948-7/1954
Lm.Giuse Phạm văn Huấn 1923-1928
Lm.Phêrô Nguyễn văn Giáo 1928-1930
Lm.Phêrô Ðổ khắc Tuế 1930-1936
Lm.Giuse Nguyễn văn Kiểu 1936-1937
Lm. Ðôminicô Phạm văn Yến 1937-1941
Lm.Phanx-Xavie Trương văn Lương 1941-1947
Lm Phan văn Ngãi (hưu trí) 1947-1948
Lm.Giacôbê Phan văn Cơ 1948-7/1954
Kể từ Di cư tháng 8-1954:
Lm.Giacôbê Phan văn Cơ 1954-1957
Lm.Phêrô Trần văn Ðiển 1957-1958
Lm.G-Baotixita Trương văn Thắng 1958-1963
Lm.Phao lô Ngô văn Triệu 1963-1965
Lm.Phanx-Savie Trần văn Cần 1965-1966
Lm.Tađêô Hồ bảo Huỳnh 1966-1969
Lm.Phêrô Huỳnh văn Hóa 1969-1972
Lm.Giuse Ngô văn Trọng 1972-1975
Lm.Anrê Nguyễn văn Trúc 1 tháng
Lm.Batôlômêo Nguyễn văn Phước 1975-1978
Lm.Giuse Cái hồng Phượng 1978-2008.
Lm.Phêrô Trần văn Ðiển 1957-1958
Lm.G-Baotixita Trương văn Thắng 1958-1963
Lm.Phao lô Ngô văn Triệu 1963-1965
Lm.Phanx-Savie Trần văn Cần 1965-1966
Lm.Tađêô Hồ bảo Huỳnh 1966-1969
Lm.Phêrô Huỳnh văn Hóa 1969-1972
Lm.Giuse Ngô văn Trọng 1972-1975
Lm.Anrê Nguyễn văn Trúc 1 tháng
Lm.Batôlômêo Nguyễn văn Phước 1975-1978
Lm.Giuse Cái hồng Phượng 1978-2008.
Nhờ sự hy sinh của toàn thể giáo hữu Loan lý và đặc biệt của một gia đình ân nhân, giáo xứ đã xây dựng một ngôi thánh đường khang trang vào năm 1995, thời cha Cái hồng Phượng làm quản xứ.
Ơn Gọi của Giáo xứ Loan lý:
*15 Linh mục: Lm.Tôma Nguyễn văn Luật (1901-1972), Lm.Phê rô Hoàng Kính (1913-2007)Lm.Giuse Hoàng Cẩn, Lm.An tôn Dương Quỳnh, Lm. Ðôminicô Nguyễn Tưởng, Lm.Hoàng Quốc, Lm.Hoàng Nhật, Lm.Hoàng Tuân, Lm.Hoàng Chỉ, Lm.Nguyễn Trần Vĩnh Linh (ở La ngà), Lm.Hoàng Sơn (ở Nha trang), Lm. Hoàng Thời (ở Mỹ), Lm.Phùng Chí (ở Mỹ), Lm.Nguyễn kim Phú (ở Mỹ),.Lm. Gia Công, dòng Thánh Tâm Huế. Còn một số Giáo sĩ và Tu sĩ không được biết tên hiện ở Hoa kỳ và Úc châu.
Các Nam Tu sĩ:Thầy Lôrensô Hoàng Trương và Thầy An phong Hoàng Nỉ, dòng Thiên an Huế.
Các Nữ Tu sĩ: Nguyễn thị Hiếu, Mến Thánh Giá Di loan, đã qua đời. Dương thị San, Mến Thánh Giá Di loan, đã qua đời. Hoàng thị Pha, Mến Thánh Giá Tam tòa (Quảng bình), đã qua đời, Hoàng thị Máy, Mến Thánh Giá Tam tòa (Quảng bình), đã qua đời, Maria Hoàng thị Lê, ở Italia, Madalêna Hoàng thị Hoàn, Mến Thánh Giá Huế, Matta Nguyễn thị Phiến, Mến Thánh Giá Huế, Maria Phùng thị Thức, dòng Phú xuân, Huế.
Phần Kết:
Ðạo Công giáo hiện diện trên nước Việt nam từ năm 1596, đời chúa Nguyễn Hoàng. Tính đến năm 1954 chia đôi đất nước, di cư, thì Phúc Âm đã được rao truyền ở Việt nam trên 350 năm, trải qua nhiều giai đoạn, lúc khó lúc dễ, khi bắt khi tha, nhưng khắc nghiệt và tàn ác nhất là dưới triều ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức đã ban hành các đạo dụ bài trừ đạo Công giáo, thực thi các cực hình rất tàn nhẫn như chém đầu, thắt cổ, xẻo thịt, kẹp da bằng kềm lửa, giam đói, tù đày, tra tấn, nung mảnh sành nóng khắc lên trán hai chữ tả đạo, tước đoạt hết nhà cửa, của cải của người có đạo.
Trong 350 năm, cả nước có khoảng 3000 nhà thờ bị đốt phá và trên 100.000 người công giáo bị giết chết (theo Việt nam Giáo sử). Họ là những công dân nước Việt, không phản quốc, không chống vua, không phạm tội ác, họ bị giết chết chỉ vì tín ngưỡng họ theo không được triều đình chấp thuận. Họ chịu tử hình vì không bỏ đạo, không bước qua Thánh Giá. Họ chết cách hiền lành, không hận thù, chết trong lời cầu nguyện. Tháng 9 năm 1885, giáo dân Cửa Tùng chống lại quân Văn thân với tính cách đề kháng để sinh tồn, để bảo vệ mạng sống, một sự tự vệ rất chính đáng chống lại chủ trương giết hàng loại, giết tập thể người công giáo hạt Ðất Ðỏ.
Vì vận nước điêu linh, giang sơn nghiêng ngửa, Giáo hạt Ðất Ðỏ chung cảnh quốc họa, giáo dân Ðất Ðỏ di cư 1954 phân tán khắp nơi, từ các thành thị, làng mạc miền Trung và miền Nam Việt nam, sau 1975 di tản đến những phương trời xa thẳm nơi châu Âu, châu Úc, châu Mỹ... Dù phiêu bạt nhưng nặng tình hoài hương và mang niềm vui chung: “ Niềm Vui Công Giáo “.
Niềm Vui Công Giáo
Vui thích được làm người Công giáo,
Sống chung trong con tàu Giáo hội,
Dù gặp bão tố hay phong ba,
Chúa làm cho sóng êm gió lặng.
Dù bị khổ nạn hoặc tai ương,
Chúa dang tay đoái thương nâng đỡ.
Dù gặp lúc mất mùa, đói khổ.
Chúa chăn nuôi, chẳng thiếu thốn chi !.
Dù phong hủi đui què câm điếc
Chúa chữa lành. Cứ việc cầu xin !.
Dù người đời chê khinh nhạo báng,
Chúa xót thương vỗ về an ủi.
Dù đàn áp bắt bớ tù đày,
Chúa giúp cho can trường bất khuất.
Dù thế gian xảo quyệt phi luân,
Chúa thương kẻ từ tâm lương thiện.
Dù đời nầy nham hiểm gian manh,
Chúa dạy sống hiền lành công chính.
Dù gặp lúc âm u tăm tối,
Chúa rọi soi ánh sáng lối đi.
Dù lạc hướng sai nẻo nhầm đường,
Chúa dẫn dắt về quê hương thật.
Dù phải lên thác xuống gềnh,
Chúa cho vượt nhẹ, căng buồm lướt êm.
Con tàu Giáo hội cập bến,
Ðưa người lữ khách đến bờ bình an.
Thiên đàng một cõi thanh nhàn,
Thảnh thơi vui hưởng muôn vàn vinh phúc.
Sống chung trong con tàu Giáo hội,
Dù gặp bão tố hay phong ba,
Chúa làm cho sóng êm gió lặng.
Dù bị khổ nạn hoặc tai ương,
Chúa dang tay đoái thương nâng đỡ.
Dù gặp lúc mất mùa, đói khổ.
Chúa chăn nuôi, chẳng thiếu thốn chi !.
Dù phong hủi đui què câm điếc
Chúa chữa lành. Cứ việc cầu xin !.
Dù người đời chê khinh nhạo báng,
Chúa xót thương vỗ về an ủi.
Dù đàn áp bắt bớ tù đày,
Chúa giúp cho can trường bất khuất.
Dù thế gian xảo quyệt phi luân,
Chúa thương kẻ từ tâm lương thiện.
Dù đời nầy nham hiểm gian manh,
Chúa dạy sống hiền lành công chính.
Dù gặp lúc âm u tăm tối,
Chúa rọi soi ánh sáng lối đi.
Dù lạc hướng sai nẻo nhầm đường,
Chúa dẫn dắt về quê hương thật.
Dù phải lên thác xuống gềnh,
Chúa cho vượt nhẹ, căng buồm lướt êm.
Con tàu Giáo hội cập bến,
Ðưa người lữ khách đến bờ bình an.
Thiên đàng một cõi thanh nhàn,
Thảnh thơi vui hưởng muôn vàn vinh phúc.
Tài kiệu tham khảo:
-Việt nam Sử lược của Trần trọng Kim.
-Việt nam Giáo sử của LM.Phan phát Huồn.
-Một Trang Huyết Lệ Trong Lịch Sử Tỉnh Quảng Trị của Jabouille, nguyên Công sứ Pháp tại tỉnh Quảng trị.
-Mười Ba Vua Nhà Nguyễn của Thi Long.
-Vè Văn Thân của ông Dương Viên.
Montréal, Thu 2008
Dương Bỉnh
Nguồn: www.vietcatholic.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét