Thứ Ba, 30 tháng 12, 2008

Huấn Dụ Của Đức Thánh Cha Về Lễ Thánh Gia

ĐTC: lễ thánh gia là một cơ hội huấn giáo về vai trò của gia đìnhVietCatholic News (28 Dec 2008 22:54)
Kinh Truyền tin chúa nhựt 28-12-08

Bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền tin vào lễ thánh gia là một cơ hội huấn giáo về vai trò của gia đình. Trước hết, đức thánh cha đã diễn giải bằng tiếng Ý như thường lệ, dành cho những người tham dự buổi cầu nguyện tại quảng trường thánh Phêrô, và sau đó, ngài đã đọc bằng tiếng Tây-ban-nha, và được trực tiếp truyền thanh và truyền hình đến thủ đô Madrid, nơi mà các giám mục đã tổ chức một thánh lễ một Thánh lễ tại quảng trường Colon, do đức hồng y Rouco Varela chủ sự vào ban sáng, để cầu nguyện cho các gia đình và cổ võ những giá trị đạo đức cổ truyền đang bị lung lay trước những dự luật của chính phủ. Sau khi ban phép lành Tòa thánh, đức Bênêđictô XVI đã mạnh mẽ kêu gọi chấm dứt những cuộc tấn công và trả đũa tại Thánh địa, gây ra nhiều chết chóc và tàn phá. Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ.

Anh chị em thân mến

Vào chúa nhựt tiếp theo lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta hoan hỉ mừng lễ thánh gia Nazareth. Khung cảnh thật là thích hợp bởi vì Giáng sinh là lễ đặc trưng của gia đình. Điều này được thấy rõ qua nhiều truyền thống và tập tục xã hội, cách riêng là thói quen xum họp tại gia đình để dùng bữa, chúc mừng và tặng quà cho nhau. Và làm sao lại không nêu bật rằng vào những cơ hội này, nỗi buồn phiền đau khổ vì những vết thương gia đình lại càng tăng thêm nữa? Chúa Giêsu đã muốn sinh ra và lớn lên ở trong một gia đình; đã có đức trinh nữ Maria làm mẹ và nhận thánh Giuse làm cha; các ngài đã thương yêu nuôi dưỡng và dạy dỗ Người.. Gia đình của Chúa Giêsu đáng được mang danh hiệu là “thánh” (thánh gia) bởi vì chỉ chăm chú tuân hành ý muốn của Thiên Chúa, được thể hiện ở nơi sự hiện diện của đức Giêsu. Một đàng, gia đình này cũng giống như bao nhiêu gia đình khác, và là mẫu gương của tình yêu vợ chồng, của sự hợp tác, của hy sinh, của lòng tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, của sự cần cù làm việc, của tình liên đới, tóm lại của những giá trị mà gia đình bảo vệ và cổ võ, nhờ vậy mà góp phần tiên phong vào việc tạo nên tế bào cho mọi xã hội. Tuy nhiên, đông thời, gia đình Nazaret mang tính cách độc nhất vô nhị, do ơn gọi độc đáo gắn liền với sứ mạng của Con Thiên Chúa. Chính vì tính cách độc đáo này mà Thánh gia chỉ tỏ cho các gia đình, nhất là các gia đình Kitô giáo, chân trời của Thiên Chúa, địa vị ưu tiên vừa êm ái vừa cương quyết dành cho ý muốn của Chúa, viễn ảnh thiên quốc nơi mà chúng ta đang nhắm tới. Hôm nay chúng ta tạ ơn Chúa vì những điều ấy, cũng như tạ ơn Đức Maria và thánh Giuse, bởi vì các ngài đã tin tưởng và quảng đại cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa.

Để diễn tả vẻ đẹp và giá trị của gia đình, ngày hôm nay hàng vạn người đã tập họp ở Madrid và tôi muốn ngỏ lời với họ bằng tiếng Tây ban nha.

Giờ đây tôi muốn thân ái chào những người đang họp nhau tại Madrid nhân ngày lễ long trọng này để cầu nguyện cho gia đình, và dấn thân hoạt động với lòng hăng say và hy vọng để bảo vệ gia đình. Quả thật gia đình là một hồng ân của Thiên Chúa, biểu lộ bản tính của Ngài là Tình Yêu. Một tình yêu hoàn toàn ban phát, nâng đỡ sự chung thuỷ vô bờ bến, kể cả vào những lúc khó khăn ngã lòng. Những đức tính này đã được thể hiện cách tuyệt vời nơi Thánh gia, trong đó Chúa Giêsu đã đến trần thế, đã lớn lên và tăng trưởng về khôn ngoan, nhờ sự ân cần săn sóc của Đức Maria và sự che chở trung tín của thánh Giuse. Các gia đình thân mến, đừng để cho tình yêu, lòng quảng đại đón nhận sự sống,và những mối dây liên kết các gia đình phải suy giảm. Các bạn hãy liên lỉ cầu xin Thiên Chúa ban những ơn đó, hãy cầu nguyện chung với nhau, ngõ hầu các điều quyết tâm của mình được soi sáng nhờ đức tin và được nâng cao nhờ ơn thánh trên con đường nên thánh. Nhờ vậy, với niềm vui phát xuất từ tình yêu được chia sẻ, các bạn sẽ cống hiến cho thế giới một chứng từ đẹp về tầm quan trọng của gia đình đối với cá nhân và xã hội. Đức thánh cha sát cánh với các bạn, đặc biệt qua lời cầu nguyện cho những ai trong các gia đình cần được sức khoẻ, công ăn việc làm, sự an ủi và tình bạn. Trong kinh Truyền tin này, tôi xin ký thác tất cả mọi người cho bà mẹ chúng ta trên trời, đó là đức Trinh nữ Maria.

Anh chị em thân mến, nói đến gia đình, tôi không thể không nhắc đến cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình lần thứ VI, sẽ diễn ra tại thành phố Mexicô từ ngày 14 đến 18 tháng giêng năm 2009. Ngay từ bây giờ, chúng ta hãy cầu nguyện cho biến cố này, và ký thác cho Chúa hết mọi gia đình, đặc biệt là những gia đình đang trải qua những thử thách của cuộc sống, của sự thiếu hiểu biết và chia rẽ. Xin Chúa Cứu thế ban cho tất cả mọi người được sự an bình và sức mạnh để đồng hành trên con đường sự thiện.

Bình Hòa

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2008

Đặc Ngữ Công Giáo Việt Nam: Tên Thánh

Người Công Giáo Việt Nam có một tên thánh. Tên thánh là tên của một vị thánh được Giáo Hội công nhận và cha mẹ lấy tên đó để đặt cho con khi chịu phép rửa tội. Người miền Nam gọi tên thánh là tên bổn mạng. Tên thánh bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng giữa thế kỷ 16 khi các giáo sĩ Tây Phương đến truyền giáo và bắt đầu có người theo đạo. Tên Thánh chịu ảnh hưởng văn minh Kitô Giáo của Âu Châu nên ta cần phân biệt tên chính của người tây phương và tên thánh của người Việt Nam .


1. Ý nghĩa tên chính của người tây phương:

Anh ngữ có 4 danh từ để chỉ tên riêng: một là tên rửa tội (baptismal name), hai là tên Kitô Giáo (Christian name), ba là tên thứ nhất (first name) bốn là tên đặt (given name). Cả bốn danh từ này đều có nghĩa là tên mà tiếng Việt Nam gọi là tên đặt, tên chính, tên riêng. Tên chính của người tây phương được đặt trong lễ rửa tội nên gọi là tên rửa tội[1](Baptismal name). Tên chính của người tây phương gọi là tên Kitô Giáo (Christian name) vì các nước tây phương chịu ảnh hưởng văn minh Kitô Giáo, tuân theo lời khuyến cáo của Giáo Hội, lấy tên các thánh để đặt tên cho các cá nhân. Do vậy, mới có từ ngữ tên thánh hay tên Kitô Giáo.

Tục lệ lấy tên thánh của người tây phương bắt nguồn từ tục lệ đặt tên trong Do Thái Giáo. Sau khi sinh con được một tuần, cha mẹ người Do Thái bế con tới giáo đường để cử hành nghi lễ đặt tên. Với con trai, nghi lễ đặt tên diễn ra trong nghi lễ cắt da quy đầu gọi là Bris. Tên được đặt gọi là tên thánh (sacred name) lấy từ các tên trong kinh thánh của Do Thái Giáo như Abraham, Jacob. Khi bị lưu đầy, người Do Thái bỏ tục lệ đặt tên thánh, nhưng đến thế kỷ 12, các giáo sĩ Do Thái thấy cần duy trì căn tính dân tộc đã buộc các tín hữu đặt tên thánh như tục lệ cổ truyền. Nhờ đó, ngày nay người Do Thái mới có một tên thứ hai là tên thánh.

Từ điển Bách Khoa Công Giáo[2], cho rằng tục lệ đặt tên thánh bắt nguồn từ quan niệm tình trạng con người được thay đổi. Nhận lãnh bí tích rửa tội là biến đổi sang con người mới. Do vậy, nhận tên thánh là chứng tích biến đổi về mặt tâm linh. Trường hợp cụ thể là vị tông đồ Paul của Kitô Giáo, sống vào thế kỷ thứ I sau Công Nguyên, trước đây có tên là Saul, khi theo đạo Công Giáo đổi tên là Paul mà người Công Giáo Việt Nam gọi là thánh Phaolô.

Người Công Giáo bắt đầu đặt tên thánh từ thời giáo hội sơ khai. Công đồng Nicaea họp năm 325 cấm việc dùng tên các thần thánh không phải của Kitô Giáo để đặt tên. Đến thời Công Đồng Tridentino họp năm 1563, Giáo Hội Công Giáo buộc giáo dân khi đặt tên riêng phải chọn tên thánh. Công đồng lưu ý các linh mục là khi làm phép rửa tội, mà gặp trường hợp cha mẹ cố tình đặt tên không hợp tinh thần Kitô Giáo, thì vị linh mục đó tự động thêm vào một tên thánh, coi đó là tên thứ hai và ghi vào sổ rửa tội giáo xứ.

Theo Bách Khoa Từ Điển Britannica, quyết định trên của Giáo Hội Công Giáo nhằm chống lại tục lệ của Giáo Hội Tin Lành, đặc biệt của Thanh Giáo, cho phép giáo dân nhận tên các nhân vật trong Cựu Ước làm tên chính, như các nhân vật Abraham, Samuel, Jacob. Rachel[3].

Đến bộ giáo luật năm 1917, qua điều khoản số 761, Giáo Hội nhắc lại khoản luật cũ từ thời Công Đồng Tridentinô. Đến bộ giáo luật mới ban hành năm 1983, người ta không thấy có điều khoản nào buộc người Công Giáo phải lấy tên thánh, mà chỉ quy định tên riêng của người ấy phải phù hợp với ý nghĩa Kitô Giáo. Điều 855 của bộ giáo luật 1983 quy định:

Cha mẹ, người đỡ đầu và Cha Sở phải lo liệu để đừng đặt một tên không hợp với ý nghĩa Kitô Giáo [4].

Tại sao Giáo Hội Công Giáo từ lúc sơ khai đến nay đã quyết định lấy tên các thánh để đặt tên cho các tín hữu? Giáo Hội đưa ra quyết định trên vì 2 lý do:

Thứ nhất, giáo hội tiếp tục duy trì truyền thống của giáo dân thời sơ khai. Những giáo dân đầu tiên là dân nô lệ, không phải công dân La Mã và theo tục lệ, khi người nô lệ được giải phóng, trở thành công dân La Mã, thì họ lấy tên chủ nhân thuộc giai cấp quý tộc làm tên mình. Tuy nhiên, với tín đồ Kitô Giáo thời đó, họ không thiết tha với các tên của các ông chủ cũ vì họ là nạn nhân của giai cấp quý tộc trong các cuộc cấm đạo. Ðồng thời khi một quý tộc trả tự do cho hàng trăm người nô lệ thì hàng trăm người đó có cùng tên với chủ cũ. Kết quả là tập tục này không đáp ứng được nhu cầu phân biệt nên các người nô lệ được giải phóng lấy tên những người mà giáo hội Kitô Giáo nhận là thánh để đặt tên cho mình. Ví dụ: Thimotheus, Stephanos, Laurentius là các vị thánh đầu tiên. Đang khi Kitô Giáo phát triển, lan tràn cả Âu Châu thì đế quốc La Mã bước vào giai đoạn suy tàn. Hệ thống tên của La Mã mai một đi, tên thánh trở nên phổ thông hơn.

Thứ hai, Giáo Hội Công Giáo muốn tôn trọng phẩm giá con người. Khi xưa số tên người Âu Châu còn ít, hệ thống tên họ chưa xuất hiện, thì để phân biệt các cá nhân, người Âu thường dùng tên mà người Anh Mỹ gọi là Nickname, người La Mã gọi là Agnomen, còn ta gọi là tên lóng. Tên lóng thường được đặt theo nét đặc biệt trên cơ thể hay tính tình của một người. Ví dụ tên lóng của người Việt Nam: Ba Mập, Tư Sún, Năm Trọc. Khi xưa tên lóng rất phổ biến ở La Mã, Hy Lạp và có nghĩa là tên thêm vào tên chính. Tên lóng thường có ý nghĩa rất tiêu cực[5], tương đương như tên tục của người Việt Nam. Ví dụ các tên như Crassus nghĩa là người béo, Varus: người què, Baldie hay Calvin: người trọc đầu, Cecil: người mù, Claude hay Gladys: người què. Vì tên có nội dung hạ thấp phẩm giá con người, nên giáo hội đã ban hành luật buộc các linh mục khi làm phép rửa tội, gặp các trường hợp tên có ý nghĩa tiêu cực, phải lấy một tên thánh đặt thêm vào.

Ngày nay, giáo dân Việt Nam cũng như giáo dân ở nhiều nơi trên thế giới vẫn nhận tên thánh vì còn giữ tinh thần bộ giáo luật cũ. Tên thánh có thể được thay đổi khi chịu phép thêm sức[6]. Theo giáo huấn của giáo hội, việc tín hữu nhận tên thánh nhằm hai mục đích: thứ nhất, để người đó bắt chước gương sáng thánh bổn mạng mà sống cuộc đời đạo đức; thứ hai, để tín hữu đó được phù trợ nhờ lời cầu bầu của thánh bổn mạng. Hai mục đích trên được nói trong khoản giáo luật số 1186:

Với mục đích cổ võ việc nên thánh của dân Chúa, Giáo Hội khuyến khích mọi tín hữu, lấy tình con cái, tôn kính đặc biệt Đức Maria hồng phúc trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa đã được Đức Kitô đặt làm Mẹ của loài người, cũng vậy, Giáo Hội cổ động lòng tôn kính chân chính và thành thực đối với các thánh, vì lẽ các tín hữu được kiên vững nhờ gương sáng và được nâng đỡ bởi lời bầu cử của các ngài[7].

2. Ý nghĩa tên thánh đối với người Công Giáo Việt Nam.

Thực ra, tên mà người Việt Nam gọi là tên thánh thì tại các nước tây phương chịu ảnh hưởng Kitô Giáo, gọi là tên rửa tội (Baptismal name) hay tên chính do bố mẹ đặt[8]. Sở dĩ người Công Giáo Việt Nam, Ðại Hàn, Nhật Bản, Trung Hoa và các nước truyền giáo khác ỏ Phi Châu hay Mỹ Châu có thêm tên thánh mà người tây phương không có, là vì các giáo sĩ tây phương đến Việt Nam cũng như các nơi truyền giáo khác, đã áp dụng tinh thần giáo luật, đặt tên thánh cho giáo dân như đã làm cho giáo dân ở tây phương.

Trái lại, đọc tiểu sử hàng giáo phẩm Công Giáo tây phương, ta không thấy vị nào có hẳn một tên thánh riêng biệt như kiểu tên người Công Giáo Việt Nam. Nếu đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn có hẳn một tên thánh riêng là Gioan Baotixita, thì đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI không có tên thánh riêng. Tên ngài là Joseph Ratzinger. Joseph vừa là tên riêng vừa là tên thánh. Ratzinger là tên họ. Tại San Jose, California , giáo xứ của tôi có linh mục Kevin Joyce. Kevin là biến thể của tên Kelvin. Kelvin là tên con sông ở Tô Cách Lan[9]. Linh mục Kevin Joyce không có tên thánh.

Vậy quyết định trên của các giáo sĩ thừa sai đối với dân Việt Nam là đúng hay sai? Nếu đặt vào bối cảnh hiện nay thì đó là điều không chấp nhận được vì tên người Việt Nam hiện nay không hề được đặt ra để hạ phẩm giá con người như kiểu người Hy Lạp, La Mã ngày xưa. Tuy nhiên, nếu đặt vào bối cảnh Việt Nam trong thế kỷ 16 thì quyết định của các thừa sai có thể tạm chấp nhận vì phong tục dân gian lúc đó còn dùng những tên tục tĩu đặt cho những đứa trẻ mới sinh để tránh tà ma. Loại tên này gọi là tên tục như con Hĩm, thằng Cu.

Hiện nay, người Công Giáo Việt Nam thường chọn tên các thánh nam giới cho phái nam và thánh nữ giới cho phái nữ. Ngoài ra, vì sự hiểu biết của giáo dân còn hạn chế về số các thánh nên người ta thường chọn các thánh thời Chúa Giêsu như Phêrô, Phaolô, Gioan, Maria, Anna làm tên thánh. Ngày nay, Giáo Hội Việt Nam có 118 vị thánh tử đạo. Tuy nhiên, giáo dân Việt vẫn chưa có thói quen nhận tên các thánh Tử Đạo Việt Nam làm bổn mạng. Người Công Giáo có tục mừng ngày lễ bổn mạng là ngày mà toàn thể Giáo Hội Công Giáo trên thế giới tưởng nhớ tới vị thánh đó. Khi chết, người Công Giáo không dùng tên húy hay tên riêng mà dùng tên thánh để cầu nguyện cho người quá cố. Như vậy, xét về bản chất, tên thánh cũng có chức năng như tên thụy, tên hèm hay tên cúng cơm là các tên để người sống nhắc đến và cầu nguyện cho người đã chết.

[1] Elsdon C. Smith. Elsdon C. Smith. The Story of Our Names. Gale Research Co. Detroit, 1970. Tr. 1.
[2] www.newadvent.org
[3] The New Encyclopaedia Britannica. 15th edition, 1991, tập 24, tr. 730.
[4] Ðức Ông Nguyễn Văn Phương (dịch)Giáo Luật. Nguyệt San Trái Tim Ðức Mẹ, Carthage, 1987, tr. 291.
[5] Elsdon C. Smith. The Story…Sđd. Tr. 76-77.
[6] Elsdon C. Smith. The Story…Sđd. Tr. 76-77.
[7] Bộ Giáo Luật. Sđd. Tr. 385.
[8] Elsdon C. Smith. The Story…Sđd. Tr. 1.
[9] Patrick Hanks & Flavia Hodges. First Names. Oxford University Press, 1996. tr. 140

Nguyễn Long Thao

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2008

Thư Mục Vụ 2008 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

VietCatholic News (06 Dec 2008 01:56)

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

Thư Mục vụ 2008 của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Cộng đồng Dân Chúa
về Môi trường Giáo dục Gia Đình Công Giáo

Kính gửi Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam

LỜI MỞ
1- Chúng tôi, Hồng y, Tổng Giám mục và Giám mục thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, xin gửi tới anh chị em lời chào thân ái và lời cầu chúc bình an trong Chúa Kitô.

2- Ý thức sứ mạng giáo huấn được trao phó cho những chủ chăn, dịp Đại hội của Hội đồng Giám mục lần thứ X năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đã gửi đến anh chị em Thư Chung với chủ đề “Giáo dục hôm nay, xã hội và Giáo Hội ngày mai”. Chúng tôi vui mừng thấy Thư Chung này đã được đón nhận và áp dụng với những sáng kiến phong phú tại các Giáo phận. Xin cám ơn anh chị em đã nhiệt tình hưởng ứng lời mời gọi của chúng tôi để cộng tác phần mình vào nền giáo dục đức tin và văn hóa, nhằm xây dựng Giáo Hội và xã hội Việt Nam, hôm nay và tương lai.

3- Tiếp nối tinh thần Thư Chung 2007 về giáo dục Kitô giáo, năm nay chúng tôi mời gọi anh chị em hãy cùng với chúng tôi suy tư và hành động để góp phần chấn chỉnh môi trường giáo dục tại gia đình (x. Thư Chung 2007, số 38). Giáo dục tại gia đình là vấn đề quan trọng và cần thiết, tạo tiền đề cho việc phát triển nền giáo dục nói chung, vì gia đình là nền tảng của Giáo Hội và xã hội. Nếu nền tảng gia đình được củng cố chắc chắn, Giáo Hội và xã hội tương lai sẽ phồn thịnh và phát triển. Qua Thư Mục vụ này, chúng tôi muốn bày tỏ mối ưu tư đối với hiện trạng gia đình Việt Nam và nêu lên những đề nghị cụ thể để góp phần canh tân mục vụ trong lãnh vực này, một lãnh vực căn bản của đời sống con người và đời sống Giáo Hội.

I- NỀN TẢNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
4- Gia đình trong ý định của Thiên Chúa là nơi giáo dục tình yêu.

Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,8). Chính vì yêu thương mà từ hư vô Ngài đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài để thông ban cho họ vinh quang vĩnh cửu. Ngài dựng nên con người có nam có nữ, tuy khác biệt về phái tính nhưng hoàn toàn bình đẳng với nhau và bổ túc cho nhau. Ngài ban cho họ có khả năng yêu mến để hướng về những ước vọng chân chính tốt lành. Nơi đời sống hôn nhân, tình yêu liên kết người nam và người nữ cách mật thiết đến nỗi họ không còn phải là hai, mà chỉ là một xương một thịt. Tình yêu hôn nhân còn phản ánh chính tình yêu của Thiên Chúa và được Chúa chúc lành.

5- Gia đình là mái trường đầu tiên của Con Thiên Chúa nhập thể.

Khi sinh xuống trần gian, Đức Giêsu đã sống trong một gia đình. Người có một quê hương, có cha có mẹ và hàng xóm láng giềng. Những người đồng hương biết rõ Người là “con bác thợ mộc“ và “mẹ Người là bà Maria“ (Mt 13,55). Thánh Giuse và Đức Maria đã nuôi dưỡng và giáo dục Hài Nhi Giêsu ngay từ lúc chào đời. Chính trong khung cảnh gia đình, Đức Giêsu đã học những bài học căn bản về đời sống đức tin và văn hóa. Về phần Đức Giêsu, “Người tuân phục hai ông bà” (Lc 3,51). Có thể nói, lối giáo dục của Thánh Giuse và Đức Maria đã góp phần làm phong phú lời giảng dạy của vị Ngôn sứ thành Nadarét sau này. Người đã vận dụng những ca dao tục ngữ, những hình ảnh bình dân của nền văn hóa địa phương để rao giảng Nước Trời. Như thế, gia đình Nadarét cho thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc giáo dục. Thánh Gia thất chính là mẫu gương cho các gia đình, nhất là những người làm cha mẹ, trong mọi nền văn hóa và môi trường xã hội.

Là Con hiếu thảo của một gia đình, Đức Giêsu cũng là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã xác nhận điều đó: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5). Người luôn lo lắng chu toàn sứ mạng của Chúa Cha, từ thời niên thiếu, khi ở lại trong Đền Thờ giữa các bậc tiến sĩ, cho đến giờ phút khổ nạn thập giá. Đức Giêsu đã luôn thể hiện ý Chúa Cha trong lời nói cũng như việc làm. Vâng phục thánh ý Chúa Cha chính là lương thực của Người (x.Ga 4,34).

6- Gia đình diễn tả tình yêu giữa Chúa Giêsu và Giáo Hội

Trong Cựu Ước, các Ngôn sứ thường mượn hình ảnh hôn nhân để diễn tả mối liên kết giữa Thiên Chúa và Dân Ngài. Sau này, Thánh Phaolô còn cụ thể hơn khi dùng hình ảnh khế ước tình yêu nam nữ để diễn tả mối gắn bó giữa Đức Giêsu và Giáo Hội (x. Ep 5,21 tt). Hôn nhân công giáo được nâng lên hàng bí tích, trở thành dấu chỉ và khí cụ của tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Đó là tình yêu quảng đại, hy sinh và hiến mạng sống vì người mình yêu. Vì thế, như Đức Kitô đã làm gương qua việc Người hiến mình vì Giáo Hội, tình nghĩa vợ chồng phải được xây dựng trên mẫu mực nền tảng đó. Đức Gioan Phaolô II nhắc lại điều này trong Tông huấn về gia đình: “Hôn nhân của những người đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy trở nên biểu tượng thật của giao ước mới và vĩnh cửu được ký kết trong máu Đức Kitô. Thánh Thần mà Chúa Cha đã đổ tràn xuống, ban cho họ một trái tim mới và làm cho cả người nam và người nữ có khả năng yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta” (Tông huấn Gia Đình, số 13).

7- Gia đình là môi trường giáo dục tình hiệp thông.

«Gia đình, được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, là cộng đồng các ngôi vị: đôi bạn nam và nữ, cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông...» (Tông huấn Gia Đình, số 18). Mối hiệp thông này được củng cố và phát triển nhờ tình tương thân tương ái và nhờ sự nâng đỡ lẫn nhau trong đời sống nhân bản cũng như đời sống đức tin. Quả vậy, nếu mọi thành viên trong gia đình sống thuận hòa và đùm bọc lẫn nhau, gia đình sẽ trở nên ấm cúng. Tình hiệp thông giữa các thành viên trong một gia đình sẽ góp phần củng cố gia đình nhân loại và gia đình Thiên Chúa, tức là Giáo Hội.

8- Gia đình là mái trường giáo dục lòng hiếu thảo và thờ phượng Thiên Chúa

Luật Cựu Ước đã đề cập đến lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ngay sau khi nói đến bổn phận thờ phượng của con người đối với Thiên Chúa trong ba giới răn đầu. Điều đó cho thấy tình tương thân tương ái trong gia đình đi liền với việc tôn thờ Thiên Chúa. Nói cách khác, hiếu thảo với các bậc sinh thành dưỡng dục là bổn phận quan trọng chỉ đứng sau việc thờ phượng Thiên Chúa. Tiếp đó, các tác giả văn chương khôn ngoan đã ca tụng những người con hiếu thảo. Hiếu thảo không chỉ là việc đền đáp nghĩa sinh thành, nhưng còn vì “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu… ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3, 3-6). Có thể nói, việc tôn thờ Chúa bảo đảm cho hạnh phúc gia đình và việc thảo kính cha mẹ là bổn phận thiết yếu đối với những ai yêu mến Chúa và muốn nên trọn lành. Gia đình chính là chiếc nôi ấp ủ, là mái trường đào tạo con người biết thực hành bổn phận cao quý này.

II- GIA ĐÌNH TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM HÔM NAY
9- Nhận định chung

Xã hội Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang chuyển mình cách mạnh mẽ với những thay đổi tích cực nhưng cũng với những mất mát to lớn, trong đó đáng kể nhất là những giá trị cơ bản liên quan đến sự bền vững của hôn nhân–gia đình và tình liên đới giữa các thành viên. Xin anh chị em cùng với chúng tôi nhận định về tình trạng gia đình Việt Nam trong xã hội hôm nay để tìm ra hướng đi mục vụ đáp ứng những nhu cầu thiết thực và cấp bách này.

10- Những khủng hoảng gia đình.

Là người Việt Nam, chúng ta tự hào về một truyền thống gia đình trên thuận dưới hòa, trong đó lòng hiếu thảo có vị trí quan trọng đối với đời sống gia đình và xã hội. Có thể nói đó là một yếu tố căn bản để con người có thể thành nhân và thành tài. Nhưng truyền thống tốt đẹp đó đang có nguy cơ bị xói mòn và mai một. Có những gia đình đang trở thành một thứ quán trọ thay vì là tổ ấm yêu thương. Cĩ nhiều người cao tuổi bị con cái bỏ rơi, không nơi nương tựa. Nạn bạo hành gia đình còn khá phổ biến, đặc biệt nhiều phụ nữ chưa được tôn trọng và yêu thương xứng đáng với phẩm giá con người. Tỷ lệ ly hôn ngày càng gia tăng và hậu quả là những trẻ em thất học, trẻ em bỏ nhà đi bụi đời ngày càng nhiều. Những phương tiện thông tin đề cập thường xuyên đến nhiều vụ việc tội phạm mà cả nạn nhân và hung thủ đều là vị thành niên. Phần lớn những em này đều xuất thân từ những gia đình bất hòa, ly tán và đổ vỡ. Cùng với những mâu thuẫn và khủng hoảng gia đình, những con số thống kê cho thấy nạn phá thai càng ngày càng nghiêm trọng, ngay cả nơi những em còn ở độ tuổi học trò. Cùng với những hậu quả tất yếu về thể lý, hành động phá thai đã để lại những vết thương tâm lý thê thảm nơi đương sự và những người có liên quan.

11- Gia đình trước ảnh hưởng của toàn cầu hóa và di dân.

Cuộc sống của người Việt Nam trước đây gắn liền với nông thôn. Mọi sinh hoạt xã hội, kinh tế, văn hoá và tôn giáo đều diễn ra trong phạm vi“lũy tre làng’’. Trong các Giáo xứ, việc dạy giáo lý, hoạt động từ thiện bác ái, sinh hoạt phụng tự có thể tổ chức sắp xếp rất thuận lợi. Người giáo dân có nhiều cơ hội gặp gỡ và chia sẻ trong nhiều lãnh vực khác nhau. Các thành viên trong một gia đình luôn ở bên cạnh nhau trong mọi sinh hoạt. Sự gần gũi thường xuyên như thế giúp mọi người có thể nhắc nhở, động viên nhau sống đạo cách dễ dàng và hiệu quả. Như vậy, môi trường Giáo xứ miền quê là một môi trường thuận lợi cho các mối quan hệ liên bản vị và cho nền giáo dục Kitô giáo.

Môi trường đó nay đang dần dà thay đổi trước làn sóng đô thị hoá và công nghiệp hoá. Ngày càng có nhiều người rời nông thôn để tìm việc làm tại các đô thị, phần lớn trong số này là giới trẻ. Những người di dân là sinh viên, học sinh, công nhân, những người buôn bán nhỏ và còn nhiều thứ dịch vụ khác. Cũng vì cuộc sống, có nhiều người đi lao động hoặc nhiều phụ nữ đi làm dâu tại nước ngoài. Họ phải đối diện với rất nhiều khó khăn để hội nhập vào một nền văn hóa mới, có những phong tục tập quán hoàn toàn xa lạ với nền văn hóa của quê hương, đặc biệt xa lạ với đời sống gia đình công giáo Việt Nam. Họ rất vất vả trong cuộc vật lộn mưu sinh, không còn thời gian dành cho đời sống thiêng liêng. Trong hoàn cảnh đó, quan niệm về tình yêu hôn nhân, về đời sống gia đình cũng bị biến dạng. Đã xuất hiện những trào lưu thiếu lành mạnh và sai lầm như sống thử, sống ngoài hôn nhân và tự do ly dị. Đã và đang tồn tại những gia đình tan vỡ khi vợ hoặc chồng đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Quan tâm đến những người di dân là một hình thức mục vụ mới đối với Giáo Hội Việt Nam hôm nay.

12- Hậu quả của một nền giáo dục còn nhiều khiếm khuyết.

Trước sự kiện hàng loạt những vụ việc tiêu cực có liên quan đến ngành giáo dục được công bố, đã có nhiều người lên tiếng kêu gọi chú trọng đến chất lượng thực thụ của sự nghiệp trồng người. Một nền giáo dục chỉ lo đến bằng cấp, chỉ phấn đấu để được điểm thi đua mà không chăm lo đến “tiên học lễ, hậu học văn“ sẽ tạo ra một thế hệ thiếu trung thực và bất tài. Chính vì thiếu khía cạnh “lễ“ mà truyền thống tôn sư trọng đạo đang bị mai một, và hậu quả là bạo lực tràn lan trong học đường. Những học sinh ở tuổi thơ ngây đã trở thành thủ phạm của biết bao tội ác, cá nhân cũng như tập thể. Nhà trường đáng lẽ là nơi đào tạo những chủ nhân tương lai biết tôn trọng sự thật, đôi khi lại là môi trường cho các em học sự gian dối. Một số phụ huynh có những hành động phản giáo dục như mua điểm mua bằng cho con em, hoặc luồn lách để được lên lớp. Điều này đã tạo cơ hội cho trẻ em bắt chước sự dối trá. Đó là một trong những thảm kịch nghiêm trọng đe doạ tương lai của Giáo Hội, xã hội và dân tộc Việt Nam.

III- MỘT SỐ CHỈ DẪN MỤC VỤ
13- Như chúng tôi đã đề cập trong Thư Chung 2007, giáo dục Kitô giáo là trách nhiệm của mọi người và từng người. Đối tượng mà nền giáo dục Kitô giáo nhắm tới cũng là mọi thành phần xã hội, không loại trừ ai. Sau khi đã cùng nhìn lại toàn cảnh tình hình gia đình Việt Nam hôm nay, chúng tôi đề nghị một số thực hành giáo dục khởi đi từ lãnh vực gia đình, vì gia đình là trường học đầu tiên, nơi hình thành nhân cách và là nơi định hướng cho tương lai của một con người.

14- Gia đình và việc giáo dục đức tin.

«Cha mẹ được mời gọi để biến tình thương con cái thành dấu chỉ hữu hình cho chúng nhận ra được tình yêu của Thiên Chúa là "nguồn gốc mọi tình phụ tử trên trời đưới đất" (Ep 3,15)» (Tông Huấn Gia Đình, số 14). Thiên chức làm cha mẹ nhắn nhủ những bậc phụ huynh có trách nhiệm thông truyền đức tin cho các thế hệ kế tiếp. Chính cha mẹ là những giáo lý viên đầu tiên cho con cái. Hãy giới thiệu cho con cái biết Thiên Chúa ngay khi con còn bé qua những lời nguyện bập bẹ đơn sơ và cử chỉ đơn giản (làm dấu Thánh Giá, vòng tay, cúi đầu...). Những lời cầu nguyện ngắn gọn, những nội dung giáo lý căn bản, những câu chuyện lấy từ Thánh Kinh, nếu được cha mẹ ân cần chỉ bảo, sẽ tạo nơi các em một nền tảng giáo lý vững chắc và một đời sống thiêng liêng sâu đậm sau này. Trách nhiệm của cha mẹ không dừng lại ở đó, mà còn thể hiện qua việc hướng dẫn, nhắc nhở con em mình đi học giáo lý, tham gia các hội đoàn đạo đức để trưởng thành hơn trong đời sống đức tin.

Hình ảnh một gia đình công giáo Việt Nam được ghi đậm nét do việc mọi thành viên cùng cầu nguyện chung với nhau. Giờ cầu nguyện chung giúp các thành viên trong gia đình gần gũi và có trách nhiệm với nhau hơn. Cầu nguyện chung là yếu tố quan trọng giúp hòa giải những mâu thuẫn gia đình và làm cho mọi người dễ tha thứ cho nhau.

Sinh hoạt đạo đức này đang bị mai một vì nhiều lý do, nhất là vì công việc, vì học hành, vì không cùng tôn giáo trong một gia đình, vì ham mê giải trí. Chúng tôi kêu gọi anh em Linh mục, các bậc phụ huynh và những cộng sự viên tông đồ hãy nhiệt thành cổ võ và khôi phục việc đọc kinh tại gia đình. Những câu kinh lời nguyện, những bài đọc Lời Chúa, nếu được thực hiện thường xuyên trong gia đình sẽ tạo nơi giới trẻ một thói quen cầu nguyện. Những thực hành đạo đức ấy sẽ theo các em suốt đời, kể cả khi các em rời xa gia đình để sống tại một môi trường khác. Lời cầu nguyện mỗi ngày vang lên từ gia đình, sẽ làm tăng thêm hạnh phúc và niềm vui, vì qua những sinh hoạt đạo đức này, chúng ta làm cho gia đình trở nên đền thờ của Thiên Chúa Tối Cao.

15- Gia đình và việc giáo dục đức ái.

Với những khủng hoảng gia đình trong xã hội hôm nay, chúng ta cần ý thức rằng từ ban đầu gia đình là cấu trúc của tình yêu và gia đình theo đúng thánh ý Chúa phải tồn tại và phát triển trong tình yêu. Do đó gia đình phải là môi trường giáo dục đặc biệt về tình yêu. Giáo dục đức tin phải đi đôi với giáo dục đức ái. Cần giáo dục tình yêu cho con cái biết yêu thương hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, biết yêu thương kính trọng bà con họ hàng, biết yêu thương và kính trọng mọi người. Cũng cần giáo dục con cái biết yêu thương, tôn trọng, nâng đỡ và hy sinh cho nhau. Con người không biết sống yêu thương trong gia đình thì không thể biết sống yêu thương đúng nghĩa trong các môi trường xã hội. Việc giáo dục tình yêu cần phải kiên nhẫn và nhất là cần đến gương yêu thương giữa cha mẹ, giữa vợ chồng. Gương mẫu của giáo dục tình yêu chính là Thánh Gia, cao hơn nữa chính là gương Chúa Giêsu yêu thương và phục vụ Hội Thánh, yêu thương và hy sinh đến chết vì mỗi người chúng ta. Thật lý tưởng khi mọi thành viên trong gia đình đều cảm nhận sâu xa là mình được mọi người trong gia đình yêu thương và tình yêu của mình được mọi người đón nhận, đáp trả.

16- Gia dình và việc dạy con cái sống theo lương tâm và sự thật.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI khẳng định rằng: “Nếu tiến bộ kỹ thuật không đi đôi với tiến bộ trong việc giáo dục đạo đức con người, trong sự tăng trưởng con người nội tâm, thì đó chẳng phải là một sự tiến bộ, nhưng lại là một mối đe dọa đối với con người và thế giới“ (Thông điệp Spe Salvi, số 22). Theo đó, lương tâm ngay chính và đời sống nội tâm sâu xa là yếu tố căn bản cho sự bền vững và phát triển của xã hội. Những hoạt động xã hội, văn hóa, chính trị đều phải xây dựng trên nền tảng lương tâm ngay chính mới mang lại hiệu quả tích cực. Gia đình là môi trường quan trọng và không thể thay thế cho việc huấn luyện này. Người cha người mẹ chính là những nhà huấn luyện lương tâm cho thế hệ tương lai.

Để cho việc huấn luyện lương tâm có hiệu quả, cần phải có sự cộng tác của mọi thành phần Giáo Hội và xã hội, vì xã hội được coi như sự nối dài của gia đình trong sứ mạng giáo dục. Thật là mâu thuẫn nếu trong nhà cha mẹ dạy con thật thà mà ra khỏi gia đình cha mẹ lại gian lận dối trá đối với những người xung quanh. Gương sáng của cha mẹ và những bậc cha anh đóng vai trò quan trọng để giáo dục lương tâm cho những thế hệ nối tiếp. Dân tộc và Giáo Hội Việt Nam trong tương lai sẽ ra sao nếu thế hệ hôm nay bàng quan nhắm mắt trước sự man trá lừa lọc? Đó là câu hỏi khiến cho các bậc phụ huynh, các giới hữu trách giáo dục phải đặt ra một cách nghiêm túc để kịp thời tìm biện pháp cứu vãn tình thế.

17- Gia đình và việc giáo dục các đức tính nhân bản.

Do đời sống công nghiệp và đô thị phát triển, con người thời nay có nguy cơ sống khép kín, thiếu tình yêu và thiếu quan tâm đến tha nhân. Gia đình là môi trường thuận lợi giúp cho các thành viên sống tình liên đới, vị tha, hài hòa và quảng đại.

Khi chú trọng giáo dục cho con cái những đức tính nhân bản như khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ, các bậc phụ huynh đang huấn luyện con cái mình “thành người“. Giáo dục nhân bản còn nhằm huấn luyện con người có trách nhiệm đối với tha nhân và công ích, góp phần bảo vệ và phát triển cuộc sống xã hội, tôn trọng thiên nhiên, cổ võ những hoạt động bác ái. Việc vận động mọi thành viên trong gia đình cùng tham gia vào mọi sinh hoạt văn hóa lành mạnh, cũng là đường lối sư phạm cụ thể và hiệu quả để giáo dục nhân bản cho thế hệ tương lai.

18- Gia đình và sứ mạng tôn trọng, bảo vệ sự sống.

Thánh Kinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Ngài chia sẻ và thông ban sự sống cho con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh của Ngài (x. St 1,27). Chính Thiên Chúa chúc lành và nâng niu sự sống con người ngay từ lúc vừa được hình thành trong lòng mẹ. Đến lượt mình, con người được cộng tác với Thiên Chúa để thông ban sự sống mình đã nhận. Mặc dù có khả năng thông truyền sự sống, con người không có quyền hủy hoại sự sống của mình. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Sự sống của con người là thánh thiêng, nó mang tính bất khả xâm phạm được khắc ghi trong lòng người, trong lương tâm con người“ (Thông điệp Tin Mừng sự sống, số 40). Vì sự sống là ân ban của Thiên Chúa, là vốn quý giá nhất của đời người, nên ’Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ một cách tuyệt đối từ giây phút thụ thai“ (Sách GLGHCG, số 2270). Con người dù đẹp hay xấu, dù thông minh hay tối dạ, đều là người đã được Thiên Chúa dựng nên và được Ngài yêu thương. Sự sống của người ấy nằm trong tay Thiên Chúa và Con Thiên Chúa đã chết trên thập giá cho người ấy. Do đó, những can thiệp của khoa học nhằm lựa chọn giới tính, những hành vi giết người như phá thai, làm chết êm dịu... đều đi ngược với phẩm giá con người và chống lại Thiên Chúa, vì chúng biến con người thành một thứ hàng hóa hay một sản phẩm thay vì là một sinh linh cao quý mang hình ảnh của Đấng Tối Cao. Những lớp giáo lý hôn nhân cần phải giúp học viên hiểu rõ giáo huấn này. Các bậc làm cha mẹ cũng cần phải hiểu biết để dạy con cái mình tôn trọng sự sống.

19- Năm Thánh Phaolô và giáo dục gia đình.

Nói về giáo dục gia đình, chúng ta không thể không nhắc đến Thánh Phaolô, đặc biệt năm nay Giáo hội kỷ niệm sinh nhật thứ 2000 của Ngài. Giáo huấn của Thánh Phaolô về gia đình mở ra cho ta những chân trời mới khi mặc cho gia đình những chiều kích sâu xa: chiều kích Ba Ngôi và vĩnh cửu.

Theo Thánh Phaolô, mỗi một con người ra đời được kêu gọi vào sự sống “trong chân lý và tình yêu’’ (Ep 4,15). Sự kêu gọi đó không chỉ liên hệ đến cuộc sống trần gian nhưng còn hướng tới sự sống vĩnh cửu. Thiên Chúa Cha chính là nguồn gốc của mọi gia tộc trên trời dưới đất, là tình phụ tử mẫu mực tuyệt hảo (x.Ep 3,14-15). Mang mẫu mực tuyệt hảo đó trong mình, Kitô hữu, xuất phát từ gia đình, lên đường xây dựng một nền văn minh tình thương nhờ tình yêu “Thánh Thần đổ lai láng trong lòng chúng ta’’ (Rm 5, 5), giúp con người có thể kiên tâm phục vụ và “chịu đựng tất cả’’ (1 Cr 13, 7). Tuyệt vời hơn cả là nhờ Đức Kitô, nền giáo dục của con người được diễm phúc mang chiều kích cứu độ và đạt đến đỉnh điểm của nhân tính nơi mầu nhiệm Phục sinh (x.Ep 3, 14-15).

Với những lời khuyên chi tiết cho từng thành viên của gia đình trong thư gửi cộng đoàn tín hữu Êphê-sô (x. Ep 5-6), Thánh Phaolô cho chúng ta thấy một quan niệm và giáo huấn của Ngài về h?nh phc gia đình. Một gia đình có nề nếp, trên kính dưới nhường không những chỉ là một tổ ấm yêu thương, mà còn phản ánh tình yêu của Đức Kitô đối với Giáo Hội. Các thành viên trong gia đình cần hy sinh cho nhau, trong tâm tình của Đức Giêsu Đấng đã hy sinh và hiến mình cho Giáo Hội. Đó là khởi điểm của hạnh phúc và là điều kiện để đạt tới sự trọn lành.

Tóm lại, theo Thánh Phaolô, qua gia đình và giáo dục theo tinh thần Tin Mừng, con người vừa xây dựng xã hội trần gian cách tích cực, vừa chu toàn được sứ mệnh xây dựng Giáo Hội và cuối cùng được siêu thăng cùng với Đức Kitô toàn thắng.

LỜI KẾT

20- Với những điều nói trên, chúng tôi mời gọi mọi thành phần Dân Chúa hãy cộng tác trong việc vun trồng những thế hệ tương lai. Nếu gia đình là nhân tố quyết định sự tồn vong của Giáo Hội và xã hội, thì việc đầu tiên chúng ta phải nghĩ tới là củng cố và thăng tiến gia đình, để bảo đảm cho hôn nhân và gia đình có được sức sống yêu thương tràn đầy và sự thăng tiến về nhân bản cũng như lòng đạo đức.

Chúng ta phó thác những dự tính mục vụ năm nay noi lời bầu cử của Thánh Cả Giuse và Đức Maria. Các Ngài là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nazareth mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta.

Kính chúc anh chị em được tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa, luôn hạnh phúc và bình an.

Hà Nội ngày 05 tháng 12 năm 2008

TM/HĐGMVN
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch
Gm.Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng thư ký

Ghi chú:
Trong Năm Thánh Phaolô và theo lời khuyến khích của Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới về “ Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội “, chúng tôi ghi lại một số bài đọc Lời Chúa trích từ các thư của Thánh Phaolô, để anh chị em có thể đọc, suy gẫm và cầu nguyện cho đời sống hôn nhân và gia đình:

- Rm 8, 31-39. “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô “.
- Rm 12, 1-2.9-18. “Hãy hiến thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa “.
- Rm 15,1-3.5-7.13. “ Anh em hãy đón tiếp nhau như Đức Kitô đã đón tiếp anh em “.
- 1 Cr 6,13- 20. “ Thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần “.
- 1 Cr 12,31-13,8.“ Nếu tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi “.
- 1 Cr 13, 4-13. “ Bác ái tin mọi sự, chịu đựng mọi sự “.
- Ep 4, 1-6. “ Chỉ có một thân thể và một linh khí “.
- Ep 5,2.21-33. “ Mầu nhiệm này thật lớn lao; tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh “.
- Pl 2, 1-5. “ Hãy có cùng một cảm nghĩ “.
- Pl 4, 4-9. “ Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em “.
- Cl 3,12-17. “ Trên hết những điều ấy, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây liên kết điều toàn thiện “.
- Dt. 13,1- 6. “ Mọi người hãy tôn trọng hôn nhân”.

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2008

Thư Gởi Cô Giáo Mầm Non


20/11/2008 10:55 (GMT + 7)
Thư của một phụ huynh gửi cô giáo mầm non với những trăn trở, suy tư và gửi gắm nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11.

Xin cô thứ lỗi, vì vào lúc mà cả xã hội đang ồn ào nói lời cảm ơn cô và đồng nghiệp thì tôi lại nói lên mong muốn của mình về công việc của cô đối với con tôi.

Bởi tôi nghĩ rằng, chăm sóc và giáo dục cháu cùng chúng bạn là công việc của cô và đồng nghiệp. Đã là công việc, cô đương nhiên phải làm tốt nhất có thể trong khả năng của mình. Rồi phụ huynh, thông qua nhà trường, sẽ trả công cho cô. Nếu trường này trả chưa xứng đáng, cô có quyền tìm đến một trường khác xứng đáng hơn với cô. Còn nếu cô chờ được trả công "xứng đáng" rồi mới làm "tương xứng", tôi tin rằng cô sẽ không bao giờ tìm thấy một trường nào trả công "xứng đáng" cả. Vì chừng nào cô chưa tận tâm, không ai biết cô xứng đáng với mức công như thế nào. Vì chừng nào cô chưa tận tâm, cô sẽ không thể tiến bộ về những kỹ năng nghề nghiệp, yếu tố tiên quyết để cô được đãi ngộ tốt hơn.

Tôi cũng tin rằng, không chỉ nhà trường sẽ trả công cho cô, mà cuộc đời cũng sẽ trả công cho cô, không chỉ là tiền bạc. Đôi khi, tôi gặp những độc giả đã quen hoặc mới quen, họ nhắc lại những bài báo cũ của tôi với một sự trân trọng. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao của một người làm nghề. Trước khi chuyển tới trường này, con tôi cũng đã nhận được sự dạy dỗ và chăm sóc tốt của một cô giáo mầm non. Vợ chồng tôi vẫn nhắc tới cô ấy với một sự trân trọng, và vẫn dạy con mình nhớ tới cô ấy. Chắc hẳn cô giáo đó khi biết được điều này cũng sẽ cảm nhận được hạnh phúc của một cô giáo dạy trẻ, và tôi tin cô cũng sẽ có cảm nhận ấy, nếu ở tình huống tương tự.

Nhưng đó có thể chưa phải là tất cả kết quả của sự tận tâm cống hiến. Vì với tư cách như một người làm việc tận tâm, cuộc sống sẽ mở ra cho cô những cơ hội lớn lao mà lúc này đây chúng ta có thể chưa lường hết được.

Không chỉ giới hạn là việc "lọt vào mắt xanh" của những "ông chủ" tốt hơn, sự tận tâm giúp cô tìm hiểu thế giới xung quanh bọn trẻ sâu sắc hơn, qua đó cũng giúp cô khám phá thế giới được nhiều hơn, và tìm thấy những cơ hội tốt hơn, có thể không còn giới hạn ở việc dạy bọn trẻ nữa. Tôi cũng đã tìm được cơ hội phát triển sự nghiệp của mình từ chính nghề viết của mình, khi một trong những độc giả của tôi đã mang đến cho tôi cơ hội hợp tác. Cô không có độc giả của mình, nhưng có những phụ huynh của mình...

Đó là vài lời tâm sự của tôi, một trong những phụ huynh của cô. Còn bây giờ là những mong đợi của tôi về việc dạy con mình. Tôi mong đợi vì không tin là cô và nhà trường này biết tất cả về giáo dục bọn trẻ. Bởi nếu biết được những điều căn bản thôi thì thế hệ trẻ bây giờ đã không phát triển lệch lạc đến thế.

Tôi mong rằng cô và đồng nghiệp không chỉ "trông trẻ", mà còn bảo vệ, chăm sóc, và dạy dỗ các cháu. Những sinh linh còn bé bỏng của loài người xứng đáng và cần được nâng niu nhất trong thế giới này. Vì chúng là bước khởi đầu của việc hình thành những con người cao quý. Và vì chúng chưa có khả năng tự vệ, tự chăm sóc, và tự học hỏi một cách có định hướng.

Thật dễ dàng để đánh, đe nẹt chúng. Nhưng cách đưa chúng "vào khuôn khổ" như vậy chắc chắn để lại những hậu quả nặng nề. Vết thương trên cơ thể, nếu có, chỉ là chuyện nhỏ so với vết thương tinh thần để lại cho chúng: sự sợ hãi. Nếu chúng là những đứa có thiên hướng nhút nhát, chúng sẽ càng nhút nhát, tự ti, thụ động hơn. Nếu chúng là những đứa trẻ có cá tính, sự sợ hãi sẽ bị đảo ngược thành sự bướng bỉnh, sự căm giận, và luôn tìm cách phản kháng tiêu cực.

Đất nước chúng ta sẽ ra sao, nếu những công dân của nó sau này phần đông là những kẻ bị động và cam chịu, phần còn lại thì thành những kẻ nổi loạn?

Chúng cần được chăm sóc, để ăn đủ những thứ mà cơ thể chúng cần (chúng chưa ý thức đầy đủ được điều đó), vui chơi một cách an toàn và khoẻ mạnh. Thế hệ chúng tôi đã phải hứng chịu tình trạng suy dinh dưỡng vì không có cái để ăn. Và còn đáng tiếc hơn nếu bọn trẻ thời nay cũng lại suy dinh dưỡng ngay cả khi thừa mứa thức ăn. Không một đất nước nào trở nên mạnh khoẻ khi những công dân của chúng ốm yếu.

Chúng cũng rất dễ nhiễm những thói hư tật xấu một cách tự phát (trớ trêu thay, còn dễ hơn cả học những điều tốt), nên rất cần tới sự định hướng của cô và đồng nghiệp. Nhưng mong cô hãy thuyết phục chúng, thay vì mặc định cái gì là tốt, cái gì là xấu. Chúng sẽ hiểu (bọn trẻ thông minh hơn chúng ta tưởng rất nhiều), và khi đã hiểu thì chúng sẽ biết ứng xử trong những trường hợp tương tự.

Tôi mong rằng cô và đồng nghiệp không chỉ dạy cháu và chúng bạn học múa, học hát, mà quan trọng hơn là học làm người. Những bài hát cũng cần được chọn lọc để nuôi dưỡng tình cảm và nhân cách của cháu. Đừng bắt chúng hát ca ngợi (những) người mà chúng không biết là ai, vì điều đó chỉ nuôi dưỡng sự sáo rỗng, giả tạo, và vô cảm cho các cháu. Hãy dạy bọn trẻ những bài hát ca ngợi tình yêu con người, thế giới xung quanh ở những hình thức cụ thể và gần gũi nhất, như với bố mẹ, ông bà, bạn bè, và với chính các cô.

Xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn, cuộc sống sẽ dễ dàng hơn nếu con người sống trong tình yêu, sự bao dung, và tránh xa sự ghen ghét, đố kỵ. Vì vậy, mong cô hãy dạy chúng biết yêu thương, biết chia sẻ, và biết tha thứ. Trước hết, bằng chính tình yêu và sự rộng lượng của cô với các cháu. Đừng xúc phạm các cháu mỗi khi chúng mắc lỗi, vì điều đó không chỉ làm cháu bị tổn thương mà còn khuyến khích sự giễu cợt của những đứa trẻ xung quanh, đẩy bọn trẻ tới sự xa lánh nhau. Cũng đừng đề cao việc so sánh giữa những đứa trẻ khác nhau (bằng cách xếp hạng chẳng hạn), vì điều đó khuyến khích sự ganh đua và làm nảy mầm tính đố kỵ. Nếu cần phải đánh giá chúng, hãy thay cho việc xếp hạng bằng xếp loại, chẳng hạn.

Nhưng tôi cũng mong cô và đồng nghiệp dạy con mình biết trả đũa, biết phản kháng và biết đương đầu khi cần thiết. Không phải lúc nào những người và sự việc xung quanh cũng tốt đẹp. Khi đó, cần phải biết đấu tranh để giành lại lẽ phải, không chỉ là cho cá nhân mình mà là để cho công lý được thực thi. Một xã hội không thể có công lý, nếu các công dân của nó không khát khao và không dám đấu tranh vì công lý.

Tôi không đòi hỏi những điều xa vời, bởi vì chính tôi đang dạy con mình như thế. Nhưng mà thời gian chúng ở trường để giao tiếp với các cô và chúng bạn còn nhiều hơn thời gian chúng giao tiếp ở nhà với bố mẹ, và nếu trống đánh xuôi, kèn thổi ngược thì... Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự hợp tác, và hơn thế là sự giúp đỡ, của cô và đồng nghiệp.

Còn sự cảm ơn, nó chỉ chân thành khi tôi thể hiện vào lúc cô đã hoàn thành công việc của mình.

Hồng Ngọc

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2008

Thư của ĐGM Giáo phận Kontum nhân Ngày Nhà Giáo 20-11

Toà Giám Mục Kontum
56 Trần Hưng Đạo - Kontum - Việtnam - abrahamvn@yahoo.ca
Số 116/VT-MV/’08/Tgmkt


NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 2008
Mến gửi: Các Học sinh Sinh viên Công Giáo
Giáo Phận Kontum.

Các con rất yêu quý,

Trong bầu khí hân hoan mừng ngày nhà giáo, Cha xin chia sẻ niềm vui với các con. Cha muốn qua các con gửi tới từng thầy cô giáo những tâm tình quý mến và biết ơn. Cha hiểu rõ những hy sinh, vất vả và tâm sức của thầy cô giáo dành cho các con trong thời điểm nhiều khó khăn chồng chất hôm nay. Cha muốn góp phần chia sẻ gánh nặng, trọng trách cao cả này bằng lời cầu nguyện, bằng cách giúp các con trở thành những học sinh chăm ngoan. Với tinh thần chăm học, các con sẽ trở thành niềm vui cho thầy cô. Cha tự hỏi làm sao để ngày biết ơn thầy cô trở thành ngày có ích lợi nhất cho các con cũng như cho thầy cô và cho mọi người?

Biết ơn là đỉnh cao của đời sống yêu thương, là con đường đưa người học trò trở thành người hơn, là động lực thôi thúc người học trò chăm ngoan hơn, học giỏi hơn và góp phần làm cho môi trường giáo dục tốt đẹp hơn. Các con chính là phần thưởng to lớn của cuộc đời thầy cô. Sau cha mẹ, các thầy cô là những người đi sát các con trên quãng đường dài làm người.

Làm người khó lắm các con ạ! Đòi hỏi cả một thời gian dài đào tạo rèn luyện. Một thời gian dài khổ công đào tạo các con nên những con người phát triển toàn diện, hài hòa và đồng đều giữa cái đầu, con tim và đôi tay, nếu không sẽ trở thành quái thai hoặc khuyết tật. Sợ nhất là chỉ phát triển cái đầu với đôi tay. Lịch sử đã phải gánh chịu bao tang thương và đổ nát do những con người như Hitler, như Pôlpôt... Các con biết ít lâu nay đã thấy xuất hiện khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” tại nhiều nơi. Muốn là những người trưởng thành của “thế giới ngày mai”, các con hãy kính yêu thầy cô và chăm ngoan từ hôm nay.

Ngành giáo dục là một trong các ngành cao quý, nhưng cũng lắm thiệt thòi so với các ngành nghề khác. Cuộc sống khó khăn hoặc một nguyên do nào đó đã làm phát sinh hình thức dạy kèm, dạy thêm tràn lan. Đây có thể nói đang là một hình thức tra tấn, khủng bố đời học tập của các con và dày vò tâm hồn những ai thiết tha tới nền giáo dục của đất nước! Nó tác động lớn tới đời sống của chính các con cũng như gia đình và xã hội. Việc học thêm học kèm đã cướp hết thời gian dành cho bản thân, cho gia đình, cho giáo hội, cho xã hội. Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, các con đừng quên lời Chúa Giêsu dạy: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Chăm lo học tập và chuẩn bị thi cử cho tốt là cách sống công chính. Đây cũng là cách hữu hiệu để dẹp bỏ được những hình thức dạy thêm, dạy kèm. Cha cũng cầu mong các thầy cô Công Giáo ý thức và có thể tự nguyện từ chối dạy kèm dạy thêm, để môi trường giáo dục trong sạch hơn.

Các con thân mến,

Trong khi chuẩn bị mừng ngày nhà giáo, học sinh sinh viên Công Giáo lại đang xôn xao về chương trình thi học kỳ I năm nay trùng vào chính ngày đại lễ Mừng Chúa Giáng Sinh. Nhiều người muốn cha lên tiếng. Cha cần suy nghĩ thêm. Còn ở đây cha có chút tâm tình với các con.

Việc thi cử đúng vào lễ Chúa Giáng Sinh hằng năm là vấn đề nhức nhối cho học sinh Công Giáo tại Việt Nam từ 1975 đến nay. Khắp nơi trên thế giới, ngày lễ Chúa Giáng Sinh (Noël) là ngày nghỉ quốc tế, nhà nhà người người được nghỉ ngơi để mừng lễ. Ngày đó, không chỉ dành cho những người có đạo, mà trở thành ngày truyền thống, trừ một vài nước chưa được nghỉ ngày đó, trong đó có Việt Nam chúng ta. Ngay cả Nước Cuba cũng đã công nhận ngày lễ Giáng Sinh là ngày lễ nghỉ. Cha và nhiều vị lãnh đạo trong Giáo Hội Kitô đã nhiều lần góp ý với Chính Quyền các cấp về vấn đề này trong hơn 30 năm qua. Có lẽ các nhà phụ trách chương trình giáo dục đào tạo tại Việt Nam chưa nghe rõ cũng như chưa cảm nhận được cái quyền sống đạo của người trẻ có đạo? Cách tốt nhất các con có thể làm lúc này là bình tĩnh chuẩn bị cho ngày thi thật tốt đẹp. Đừng có ai trong các con thốt lên những lời nói xúc phạm hay có thái độ bực dọc trước chủ trương tổ chức thi vào chính ngày lễ Giáng Sinh. Có người nghĩ bắt thi vào chính ngày lễ Giáng Sinh là một việc làm báng bổ Đạo Chúa, có người lại coi đây là một hình thức phân biệt kỳ thị. Cũng có người còn nghĩ đây là một hình thức bách đạo tế vi. Cha chưa dám nghĩ như thế, nhưng cha nhớ ngay tới tâm sự Nhà văn Voltaire - một người đã báng bổ Đạo Chúa – đã thổ lộ trước giờ chết : “Tôi chỉ vô thần trên bàn giấy. Còn trước cái chết chẳng ai vô thần được nữa”.

Phần các con, nếu ngày thi “vẫn còn bị giữ” đúng vào ngày đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh, các con hãy “hân hoan vui sướng như các thánh tông đồ xưa” (x. Cv 5,34-41) và biến trường lớp các con thành hang đá Belem sống động. So với hang đá đầu tiên là chuồng bò lừa, hôi tanh, vắng vẻ, thì trường lớp của các con là những hang đá sạch đẹp hơn nhiều. Hãy bước tới trường thi như các mục đồng xưa rủ nhau tới chiêm bái Chúa Hài Nhi bằng tâm tình cầu nguyện, cảm tạ tôn vinh Chúa, bằng cách chuẩn bị thi và thi thật tốt. Chính thái độ sống quảng đại như thế là lời loan báo tin vui giáng sinh cho mọi người! Hãy là những nhà truyền giáo bé nhỏ cho các thầy cô và bạn bè qua các bài thi thật tốt của các con. Các con sẽ được thấy những Phaolô mới xuất hiện trong cuộc đời mình như Tiến sĩ Phan Như Ngọc, như Bác sĩ Nguyễn Văn Ngoạn.... Tất cả đã vượt qua những đêm tối dò dẫm để tìm đến ánh sáng của chân lý, của tình yêu, của sự sống. Cha mong các con có dịp đọc lại cuộc đời của các vị này.

Cha cầu mong các con có nhiều niềm vui khi mừng ngày nhớ ơn Thầy cô. Cầu mong các con có nhiều quyết tâm mới cho mai ngày tươi sáng. Xin Thần Khí Thiên Chúa ở cùng các con.

Thương mến chào các con,

Kontum, 16 tháng 11 năm 2008

(đã ký và đóng dấu)
Micae HOÀNG ĐỨC OANH
Giám mục Giáo phận Kontum


Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2008

Tưởng Nhớ Giáo Hạt Ðất Ðỏ Cửa Tùng - Giáo Phận Huế (2)

Các Tu Viện:

*Tiểu Chủng viện An ninh:

Còn gọi là Nhà trường An ninh, tọa lạc trên một khu đất khá rộng và quang đảng tại làng An ninh. Theo sách Hành Hương của ông Trần quang Chu: “Năm 1783, Ðức cha Gioan Labartette thành lập Tiểu chủng viện ở Di loan. Tháng 8-1798 vua Cảnh Thịnh (Tây sơn) bắt đạo nên chủng viện phải giải tán. Năm 1801, Nguyễn Ánh phục quốc, năm 1802 lên ngôi hoàng đế lấy hiệu Gia Long, đem gia quyến và hoàng tử Ðảm (10 tuổi, sau nầy nối ngôi hiệu là Minh Mạng) ra thăm quê ngoại ở làng Cổ trai (kế làng An ninh). Dịp nầy, để tỏ lòng biết ơn Ðức cha Pigneau (Bá đa lộc), Nguyễn Vương đã dành cho Ðức cha Gioan Labartette một cuộc viếng thăm kính trọng và bất ngờ. Dịp nầy Nguyễn Vương ban cho Ðức Cha một sở đất quang ánh và rộng rải tại làng An ninh để xây dựng chủng viện”.

Tiểu chủng viện An ninh là nơi đào tạo linh mục trong giai đoạn 8 năm đầu, sau đó vào học ở Ðại chủng viện Huế 6 năm rồi mới thụ phong linh mục. Tiểu chủng viện An ninh cũng giúp giáo huấn chủng sinh cho Giáo hội Công giáo Lào. Một ít chủng sinh thụ giáo ở đây sau nầy nổi danh như Ðức cha Hồ ngọc Cẩn, Giám mục Giáo phận Bùi chu; Ðức cha Ngô đình Thục, Giám mục Giáo phận Vĩnh long và Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế; Ðức cha Lê hữu Từ, Giám mục Giáo phận Phát diệm; Ðức cha Nguyễn văn Hiền, Giám mục Giáo phận Sài gòn và Ðà lạt; Ðức Hồng y Nguyễn văn Thuận, Giám mục Giáo phận Nha trang, Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài gòn, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình Tòa thánh Vatican; Ðức cha Nguyễn như Thể, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế; Linh mục Nguyễn văn Thích, giáo sư Hán văn và Triết học Ðông phương tại Ðại học Huế, Ðà lạt và Sài gòn; Linh mục Nguyễn văn Lập, Viện trưởng viện Ðại học Ðà lạt. Một ít chủng sinh rời chủng viện sau nầy dấn thân vào đời cũng xuất chúng, như:

-Ông Ngô đình Khả, học ở Tiểu chủng viện An ninh sau đó chuyển đến Chủng viện Pénang (Mã lai), Thượng thư bộ Công. Ông được người đời truyền tụng “Ðày vua không Khả, đào mã không Bài” (Năm 1907, Thượng thư Ngô đình Khả phản đối việc lưu đày vua Thành Thái sang đảo Réunion. Năm 1908 Thượng thư Nguyễn hữu Bài chống kịch liệt Khâm sứ Mahé (Pháp) đòi khai quật mộ vua Tự Ðức để lấy vàng ngọc). Ông Ngô đình Khả là người đã vận động thành lập trường Quốc học Huế, niên khóa đầu tiên 1896-1897 vua Thành Thái đích thân chủ tọa. Ông cũng là người vận động thành lập một tư thục cho con em lương giáo, lấy tên là trường Pellerin Huế, khai giảng khóa đầu tiên năm 1904 do sư huynh dòng Lasan điều khiển.

- Ông Nguyễn hữu Bài, Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hộ sung Cơ mật viện Ðại thần dưới triều vua Khải định. Ông được người đời truyền tụng “Ðày vua không Khả, đào mã không Bài”

- Ông Ngô đình Nhu, chính trị gia, người đã tận trung tận nghĩa giúp bào huynh của mình (Tổng thống Ngô đình Diệm) bảo vệ chủ quyền quốc gia và nền độc lập của Nước Nhà.

- Ông Lê quang Tung, cựu Tư lệnh Lực lượng Ðặc biệt của Quân đội Việt nam Cộng hòa, một gương trung can, đã tử trung, không chịu làm tay sai cho ngoại bang.

Tiểu chủng viện An ninh có một cơ ngơi bề thế gồm 2 dãy nhà lầu làm nơi ở và học cho các giáo sư và chủng sinh, 1 nhà thờ chính, 1 nhà thờ nhỏ gọi là nhà thờ Ðức Bà và 1 gọi là nhà thờ Thánh An-tôn, nhà chơi, nhà khách, nhà ăn, nhà bếp, lẫm lúa (kho thóc), v.v.......... Vua Khải Ðịnh đã một lần tới thăm và ban cho Tiểu chủng viện nầy một bức hoành phi bốn đại tự “ Phụ Thế Trưởng Nhân “

Qua các biến cố dồn dập bắt đạo liên miên, đến thời an bình kiến thiết xây dựng tiếp đến thời kỳ chiến tranh tàn phá, Tiểu chủng viện An ninh tồn tại đến tháng 8 năm 1954 di cư, chuyển vào Huế. Vị Giám đốc cuối cùng của Chủng viện An ninh là cha An-rê Bùi quang Tịch, một linh mục thánh thiện và nhân đức. Khi bị ngứa không gãi, đau răng không dùng thuốc giảm đau, sống khổ hạnh, chịu đựng, khắc khổ. Khi về già ngài vào tu ở dòng khổ tu Xi tô Thủ đức.

*Phước viện Mến Thánh Giá Di Loan:

Phước viện có từ lâu, cơ sở bị Văn thân tiêu hủy hoàn toàn tháng 9 năm 1885, được linh mục Alfred Maria Eugenio Barthe Lémy (cố Mỹ) làm quản xứ Di loan vào năm 1887, đã cho tu tạo lại phước viện nầy. Sau năm 1918, linh mục Léopold Cadière (cố Cả) giúp củng cố và phát triển tu viện nầy. Phước viện Di loan sống âm thầm trong một khuôn viên khá rộng, cây cối rợp bóng quanh năm. Hằng ngày, các Dì Phước, luôn đi cặp đôi, đến các trường học giáo xứ để dạy giáo lý và khai tâm quốc ngữ miễn phí cho các em nhỏ, nhờ công khai trí nầy mà tất cả người công giáo hạt Ðất Ðỏ đều biết đọc chữ quốc ngữ. Các nữ tu lo tu hành nhưng cũng góp phần vào việc phát triển kinh tế, như sản xuất muối ăn, nuôi tằm, quay tơ, dệt lụa. Thuở ấy các loại vải nội hóa khổ ngắn, nhưng phước viện Di loan đã dệt thao, lụa khổ rộng như hàng ngoại hóa nhờ biết cải biến khung cửi (máy dệt bằng tay). Hàng tơ lụa của Phước viện nầy có thời đã nổi tìếng trên thị trường Ðông dương, gọi là “Hàng Tơ Lụa Cửa Tùng”. Hàng nầy còn xuất khẩu sang Pháp và quanh vùng Ðông Nam Á nữa. Phước viện cũng cung cấp các loại thuốc tây thay các loại cao đơn hoàn tán để trị các bệnh thông thường như cảm mạo, nhức đầu, đau bụng, ghẻ chốc,v.v...

Sau ngày đất nước bị chia đôi, 01-08-1954, Phước viện Mến Thánh Giá Di loan đã dời vào thánh địa La vang, Quảng trị.

* Dòng Xi tô Phước sơn:

Linh mục Henri Denis, tên Việt là Cố Thuận, người Pháp, giáo sư Tiểu chủng viện An ninh, năm 1918 thành lập dòng khổ tu “Ðan viện Xi tô” đầu tiên tại Việt nam trên khu đất hoang vắng thuộc tổng Thủy ba, phủ Vĩnh linh, bên rìa Trường sơn. Khoảng vài chục năm sau, Dòng nầy phát triển thêm dòng Châu sơn ở Phát diện (Bắc Việt). Năm 1949, vùng Phước sơn mất an ninh, ngày 26-04-1953, cha Bề Trên (người Việt), 2 Cha khác và 2 Thầy bị bắt giam tại mật khu Ba lòng, Quảng trị, Nhà Dòng bị Việt minh chiếm, các đan sĩ di tản vào Sài gòn và lập các đan viện mới như Phước lý ở Thủ đức, Phước sơn ở Phúc lộc (Bà rịa),Thiên phước ở Vũng tàu, Phước vĩnh ở Trà vinh (Miền Tây).

Một vài Giáo xứ điển hình:

Họ Di loan: Di loan vừa là tên giáo xứ vừa tên làng hành chánh. Theo Danh Sách Xã Thôn Trung Kỳ của Phủ Thủ Hiến Trung Phần Việt Nam thì làng nầy tên là Di Luân thuộc tổng Hiền lương, phủ Vĩnh linh, tỉnh Quảng trị. Di loan là quê quán của Ðức cha Lê hữu Từ, Giám mục Phát diệm. Phong thổ Di loan khá đẹp, mặt tiền làng hướng về phía nam, nơi dòng Hiền lương (Bến hải) lững lờ chảy ra biển. Dọc bờ sông, tầng thấp làm ruộng muối, tầng cao ruộng lúa, đến một con đường khá rộng suốt từ đầu đến cuối làng. Sau con đường nầy là cư dân, nhà cửa vườn tược xanh tươi. Giữa làng, phía mặt tiền nhìn ra sông, một ngôi thánh đường trang nghiêm cổ kính kiến trúc theo nghệ thuật gothique của châu Âu. Ngày lễ lớn và chúa nhật, ba chuông cùng đổ hồi dồn dập ngân vang khắp vùng hải ngạn Cửa Tùng. Cai quản họ đạo nầy là linh mục Léopold Cadière, tên Việt là Cố Cả, thuộc hội Thừa sai Ba lê (Mission Étrangère de Paris), một học giả uyên bác, đến Việt nam năm 1892, giáo sư Tiểu chủng viện An ninh, Cửa Tùng 1893-1894, Quản xứ Di loan kiêm Quản hạt Ðất Ðỏ từ tháng 9-1918 đến tháng 3-1945, bị Nhật bắt giam 5 tháng trong dịp Nhật đảo chánh Pháp tại Việt nam. Ngày 19-12-1946 bị Việt minh bắt đi an trí tại Vinh (Xã Ðoài) cho đến ngày đình chiến được trả tự do và về hưu trí tại nhà Hưu dưỡng Tòa Giám mục Huế. Năm 1942. cố Cả mừng Kim Khánh (50 năm linh mục) tại Di loan, dịp nầy được chính phủ Pháp tặng Bảo Quốc Huân Chương (Légion d’honneur) và huy chương khác của Chính phủ Nam Triều, bởi ngài là nhà bác học qua những công trình khoa học, văn hóa, xã hội.. Năm 1990, Chính quyền Hà nội đã vinh danh Lépold Cadière là “Nhà Huế Học” và “Nhà Việt Nam Học” do những công trình nghiên cứu của ngài đã làm cho thế giới biết đến văn hóa, nghệ thuật và lịch sử Việt nam.

Tháng 8 năm 1954, Di loan đã di cư vào Nam và định cư tại An đôn, Quảng trị, đến mùa hè đỏ lữa 1972, phân tán nhiều nơi trên lãnh thổ Việt nam Cộng hòa.

Họ An ninh: An ninh là một làng công giáo toàn tòng. An ninh vừa là tên làng hành chánh vừa là tên giáo xứ. Còn có tên gọi khác là làng Phường, Họ Phường. Người An ninh tính tình hiền hòa. Nhà thờ họ nầy khá lớn, kiến trúc dáng vẻ cổ kính, mặt tiền trang trí hoa văn bằng mảnh kính mảnh sành của dĩa bát xưa đập vỡ. Nhà thờ An ninh là nơi Giáo hạt Ðất Ðỏ tổ chức kiệu Mân cội (Môi khôi) mỗi năm với hàng ngàn giáo hữu từ nhiều giáo xứ, đoàn kiệu kéo dài hàng cây số, chuông, chiêng, trống đại, trống cà rầng, cờ phướn rợp trời.

Hai họ Di loan và An ninh đã cung cấp cho Giáo hội nhiều giáo sĩ và tu sĩ.

Họ An do Tây: Là một làng công giáo toàn tòng. An do Tây là tên làng hành chánh vừa là tên giáo xứ. An do Tây có một Hội Hát (Ca đoàn) có vẻ chuyên nghiệp, hát la-tinh với đàn phong cầm (orgue) khá hay, có đội Nghĩa Binh Thánh Thể rất linh hoạt. Nhà thờ An do tây có tháp cao vút tưởng chừng như thấu từng mây.

Họ Ba Ngoạt: Là một giáo xứ lớn, đông giáo dân của ba làng Ba bình, Bình đức và Hòa lạc thuộc tổng Hồ xá phủ Vĩnh linh hợp thành. Người giáo dân Ba ngoạt tính tình hiền hòa chân thật, giữ đạo sốt sắng, trung kiên, là nơi cung cấp cho giáo hội nhiều linh mục và tu sĩ nam nữ. Di cư 1954, Ba ngoạt định cư tại La vang Trung. Mùa hè đỏ lửa 1972, La vang Trung tản mác nhiều nơi ở miền Nam Việt nam: Sông pha (Ninh thuận), Suối nghệ ((Bà rịa), Cam ranh (Khánh hòa), Bình tuy, Quảng biên (Biên hòa).....

Hai họ Cao xá và An lộc: Cao xá có ngôi thánh đường đẹp, giáo dân sống đạo đức, sốt sắng, kinh tế sung túc nhờ có nhiều ruộng. Cao xá là quê quán của cụ Nguyễn hữu Bài, Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hộ, sung Cơ Mật viện Ðại thần dưới triều vua Khải Ðịnh.

An lộc là họ nhánh của Cao xá, có nhiều ruộng tốt, dân số tuy ít nhưng phú túc, sống đạo trung kiên. Hai họ nầy thuộc tổng Xuân hòa, ở bờ nam sông Bến hải nên khỏi di cư 1954, nhưng trong chiến tranh 1960-1975, giáo dân hai họ nầy phải di tản đến tạm trú tại Hà thanh (Gio linh) và Cam lộ, đến mùa hè đỏ lửa 1972 phải phân tán đến định cư tại Suối nghệ (Bà rịa), Sông pha (Ninh thuận), Quảng biên (Biên hóa). v.v...

Bốn họ An bằng, An lễ, An ngãi, An trí: Có nhiều Nữ Tu ở dòng Mến Thánh Giá Phủ cam (Huế). Di cư 1954, định cư tại La vang hữu. Hè đỏ lửa 1972 phân tán đến nhiều địa phương khác như Phước long, Long khánh, Cam ranh (Khánh hòa), Suối nghệ (Bà rịa), Bình tuy, v.v...

Họ Hòa ninh: Nơi cung cấp cho Giáo hội nhiều giáo sĩ và tu sĩ nam nữ. Giáo dân Hòa ninh có gốc từ ba làng: An du bắc, An ninh và Di loan. Di cư 1954 định cư tại La vang thượng. Hè đỏ lửa 1972 tản mác nhiều nơi như Suối nghệ (Bà rịa), Sông pha (Ninh thuận), Bình tuy,v.v.....

Họ Loan Lý: Trong số 19 giáo xứ thuộc Giáo hạt Ðất Ðỏ của Giáo phận Huế di cư vào tháng 8 năm 1954, 18 giáo xứ định cư tại Quảng trị đều tan rả do chiến cuộc mùa hè 1972, phân tán đến định cư tại các địa điểm “Khẩn hoang Lập ấp” như Sông pha (Ninh thuận), Vĩnh linh (Cam ranh), Bình tuy, Quảng biên (Biên hòa), Bầu cá, Thái thiện (Long khánh) hay các khu Dinh điền Phước long, Bình long, Tánh linh, v.v... và nhập vào Giáo phận địa phương. Duy chỉ Giáo xứ Loan lý tồn tại đến nay tại Lăng cô thuộc Giáo hạt Hải vân, Giáo phận Huế.

Loan lý trong thời kỳ sơ khai chỉ là một xóm đạo, sau phát triển thành họ đạo, có tên là họ Biện Hoản (Biện là một chức nhỏ phụ trách một số việc trong họ đạo, Hoản là tên của người phụ trách). Sau đó lấy tên chính thức là “ Luân lý”, theo sổ bộ viết bằng hán nôm cuả Họ gọi là “Hội Giáo Luân Lý”.
Theo niên lịch của Ðịa phận Huế từ năm 1945 trở lên trước, ở mục sinh quán và bổn sở (Họ phụ trách) của các linh mục, năm thì ghi là Luân lý, năm khác lại là Loan lý.

Giáo xứ Loan lý do giáo dân hai làng hợp lại: 2/3 giáo dân thuộc làng Di loan, mang dòng họ Hoàng, họ Lê; còn 1/3 giáo dân thuộc làng An du Bắc, mang họ Dương, họ Nguyễn và họ Phùng. Nói cách khác, ở Loan lý, những người mang họ Hoàng và họ Lê là gốc làng Di loan, những ai mang họ Dương, họ Nguyễn, họ Phùng là gốc làng An du Bắc

Loan lý còn tồn tại đến nay là bởi khi di cư, được linh mục Phan văn Cơ dẫn dắt đến định cư trên bãi cát Lăng cô dọc quốc lộ 1 dưới chân đèo Hải vân, nơi đây phong cảnh hữu tình, biển sâu, núi cao, đầm rộng, có nhà nghỉ mát của vua Bảo Ðại, của Linh mục già Giáo phận Huế.

Lăng cô cũng là địa điểm lịch sử: Khi vua Hàm Nghi bị bắt ở Hà tịnh được đưa về Thuận an (Huế), sau đó được chuyển xuống tàu vào Lăng cô, rồi từ Lăng cô Vua lên tàu La Comette vào Sài gòn. Từ Sài gòn xuống tàu sang Alger. (Theo sách 13 Vua Nhà Nguyễn).

Loan lý ban đầu được Cha Sở Di loan coi sóc, nhưng kể từ năm 1921, các Linh mục sau đây quản xứ:

Lm.Mathêô nguyễn hữu Oai 1921-1923
Lm.Giuse Phạm văn Huấn 1923-1928
Lm.Phêrô Nguyễn văn Giáo 1928-1930
Lm.Phêrô Ðổ khắc Tuế 1930-1936
Lm.Giuse Nguyễn văn Kiểu 1936-1937
Lm. Ðôminicô Phạm văn Yến 1937-1941
Lm.Phanx-Xavie Trương văn Lương 1941-1947
Lm Phan văn Ngãi (hưu trí) 1947-1948
Lm.Giacôbê Phan văn Cơ 1948-7/1954

Kể từ Di cư tháng 8-1954:

Lm.Giacôbê Phan văn Cơ 1954-1957
Lm.Phêrô Trần văn Ðiển 1957-1958
Lm.G-Baotixita Trương văn Thắng 1958-1963
Lm.Phao lô Ngô văn Triệu 1963-1965
Lm.Phanx-Savie Trần văn Cần 1965-1966
Lm.Tađêô Hồ bảo Huỳnh 1966-1969
Lm.Phêrô Huỳnh văn Hóa 1969-1972
Lm.Giuse Ngô văn Trọng 1972-1975
Lm.Anrê Nguyễn văn Trúc 1 tháng
Lm.Batôlômêo Nguyễn văn Phước 1975-1978
Lm.Giuse Cái hồng Phượng 1978-2008.

Nhờ sự hy sinh của toàn thể giáo hữu Loan lý và đặc biệt của một gia đình ân nhân, giáo xứ đã xây dựng một ngôi thánh đường khang trang vào năm 1995, thời cha Cái hồng Phượng làm quản xứ.

Ơn Gọi của Giáo xứ Loan lý:

*15 Linh mục: Lm.Tôma Nguyễn văn Luật (1901-1972), Lm.Phê rô Hoàng Kính (1913-2007)Lm.Giuse Hoàng Cẩn, Lm.An tôn Dương Quỳnh, Lm. Ðôminicô Nguyễn Tưởng, Lm.Hoàng Quốc, Lm.Hoàng Nhật, Lm.Hoàng Tuân, Lm.Hoàng Chỉ, Lm.Nguyễn Trần Vĩnh Linh (ở La ngà), Lm.Hoàng Sơn (ở Nha trang), Lm. Hoàng Thời (ở Mỹ), Lm.Phùng Chí (ở Mỹ), Lm.Nguyễn kim Phú (ở Mỹ),.Lm. Gia Công, dòng Thánh Tâm Huế. Còn một số Giáo sĩ và Tu sĩ không được biết tên hiện ở Hoa kỳ và Úc châu.

Các Nam Tu sĩ:Thầy Lôrensô Hoàng Trương và Thầy An phong Hoàng Nỉ, dòng Thiên an Huế.

Các Nữ Tu sĩ: Nguyễn thị Hiếu, Mến Thánh Giá Di loan, đã qua đời. Dương thị San, Mến Thánh Giá Di loan, đã qua đời. Hoàng thị Pha, Mến Thánh Giá Tam tòa (Quảng bình), đã qua đời, Hoàng thị Máy, Mến Thánh Giá Tam tòa (Quảng bình), đã qua đời, Maria Hoàng thị Lê, ở Italia, Madalêna Hoàng thị Hoàn, Mến Thánh Giá Huế, Matta Nguyễn thị Phiến, Mến Thánh Giá Huế, Maria Phùng thị Thức, dòng Phú xuân, Huế.

Phần Kết:

Ðạo Công giáo hiện diện trên nước Việt nam từ năm 1596, đời chúa Nguyễn Hoàng. Tính đến năm 1954 chia đôi đất nước, di cư, thì Phúc Âm đã được rao truyền ở Việt nam trên 350 năm, trải qua nhiều giai đoạn, lúc khó lúc dễ, khi bắt khi tha, nhưng khắc nghiệt và tàn ác nhất là dưới triều ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức đã ban hành các đạo dụ bài trừ đạo Công giáo, thực thi các cực hình rất tàn nhẫn như chém đầu, thắt cổ, xẻo thịt, kẹp da bằng kềm lửa, giam đói, tù đày, tra tấn, nung mảnh sành nóng khắc lên trán hai chữ tả đạo, tước đoạt hết nhà cửa, của cải của người có đạo.

Trong 350 năm, cả nước có khoảng 3000 nhà thờ bị đốt phá và trên 100.000 người công giáo bị giết chết (theo Việt nam Giáo sử). Họ là những công dân nước Việt, không phản quốc, không chống vua, không phạm tội ác, họ bị giết chết chỉ vì tín ngưỡng họ theo không được triều đình chấp thuận. Họ chịu tử hình vì không bỏ đạo, không bước qua Thánh Giá. Họ chết cách hiền lành, không hận thù, chết trong lời cầu nguyện. Tháng 9 năm 1885, giáo dân Cửa Tùng chống lại quân Văn thân với tính cách đề kháng để sinh tồn, để bảo vệ mạng sống, một sự tự vệ rất chính đáng chống lại chủ trương giết hàng loại, giết tập thể người công giáo hạt Ðất Ðỏ.

Vì vận nước điêu linh, giang sơn nghiêng ngửa, Giáo hạt Ðất Ðỏ chung cảnh quốc họa, giáo dân Ðất Ðỏ di cư 1954 phân tán khắp nơi, từ các thành thị, làng mạc miền Trung và miền Nam Việt nam, sau 1975 di tản đến những phương trời xa thẳm nơi châu Âu, châu Úc, châu Mỹ... Dù phiêu bạt nhưng nặng tình hoài hương và mang niềm vui chung: “ Niềm Vui Công Giáo “.

Niềm Vui Công Giáo

Vui thích được làm người Công giáo,
Sống chung trong con tàu Giáo hội,
Dù gặp bão tố hay phong ba,
Chúa làm cho sóng êm gió lặng.
Dù bị khổ nạn hoặc tai ương,
Chúa dang tay đoái thương nâng đỡ.
Dù gặp lúc mất mùa, đói khổ.
Chúa chăn nuôi, chẳng thiếu thốn chi !.
Dù phong hủi đui què câm điếc
Chúa chữa lành. Cứ việc cầu xin !.
Dù người đời chê khinh nhạo báng,
Chúa xót thương vỗ về an ủi.
Dù đàn áp bắt bớ tù đày,
Chúa giúp cho can trường bất khuất.
Dù thế gian xảo quyệt phi luân,
Chúa thương kẻ từ tâm lương thiện.

Dù đời nầy nham hiểm gian manh,
Chúa dạy sống hiền lành công chính.
Dù gặp lúc âm u tăm tối,
Chúa rọi soi ánh sáng lối đi.
Dù lạc hướng sai nẻo nhầm đường,
Chúa dẫn dắt về quê hương thật.

Dù phải lên thác xuống gềnh,
Chúa cho vượt nhẹ, căng buồm lướt êm.
Con tàu Giáo hội cập bến,
Ðưa người lữ khách đến bờ bình an.
Thiên đàng một cõi thanh nhàn,
Thảnh thơi vui hưởng muôn vàn vinh phúc.

Tài kiệu tham khảo:

-Việt nam Sử lược của Trần trọng Kim.
-Việt nam Giáo sử của LM.Phan phát Huồn.
-Một Trang Huyết Lệ Trong Lịch Sử Tỉnh Quảng Trị của Jabouille, nguyên Công sứ Pháp tại tỉnh Quảng trị.
-Mười Ba Vua Nhà Nguyễn của Thi Long.
-Vè Văn Thân của ông Dương Viên.

Montréal, Thu 2008
Dương Bỉnh

Nguồn: www.vietcatholic.net

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2008

Tưởng Nhớ Giáo Hạt Ðất Ðỏ Cửa Tùng - Giáo Phận Huế

(Thương Kính 1300 Vị Tiền Nhân Vĩnh Linh “Tử Vì Ðạo” năm 1645, 1838 và 1885)


Giáo hạt Ðất Ðỏ nằm gọn trong địa hạt phủ Vĩnh linh tỉnh Quảng trị, nơi đây một thời nổi tiếng là vùng Công giáo sầm uất. Nhưng nay đã tan tác theo vận nước điêu linh nghiêng ngửa.

Các làng công giáo vùng nầy phần nhiều ở dọc ven sông Hiền lương (Bến hải) thuộc phủ Vĩnh linh, xưa kia gọi là huyện Minh linh và sông Hiền lương gọi là sông Minh lương. Con sông nầy bắt nguồn từ Trường sơn chảy về tưới lúa đồng bằng Vĩnh linh rồi chảy ra hải khẩu Cửa Tùng. Có lẽ nhờ cửa biển nầy mà trước đây các nhà truyền giáo đã cập thuyền men sông, tiếp xúc với cư dân để giảng đạo.

Theo Việt nam giáo sử (tóm lược), công cuộc truyền giáo ở Trung Việt (1615-1659) được bắt đầu từ cửa Hàn (Ðà nẳng) vào năm 1615 rồi dần đến Quảng nam, Bình định. Ðang khi giảng đạo ở Quảng nam, các linh mục chia nhau khu vực để làm việc. Cha Perdo Mattos lo giảng đạo ở Thuận hóa - Quảng bình (Thừa thiên, Quảng trị, Quảng bình). Cha Ðắc lộ (Alexandre De Rhodes) phụ trách các tỉnh Quảng nam, Bình định, Phú yên.

Ngày 15-01-1644, cha Ðắc lộ gửi thầy I-nha-xô và thầy Vinh-sơn đi ra các tỉnh phía bắc Trung Việt (Thừa thiên, Quảng trị, Quảng bình). Thầy I-nha-xô (tên thánh, không rỏ tên Việt) sinh năm 1610 tại làng Liêm công, miền Cửa Tùng. học thức rộng, thông sử ký, được bổ nhiệm một chức tại phủ Tổng Trấn tức dinh ông Hoàng Khê. Ông Hoàng Khê là con của bà Minh Ðức Vương Thái Phi, vợ lẽ chúa Nguyễn Hoàng. Năm 30 tuổi, thầy I-nha-xô theo đạo Công giáo do cha Ðắc lộ rửa tội. Hai năm sau, Thầy từ chức quan để gia nhập đoàn Thầy Giảng gồm 9 người, Thầy được cử làm Trưởng đoàn. Thầy I-nha-xô đã rửa tội cho 293 người, nhưng chính trong quê hương làng xã của mình, I-nha-xô chỉ rửa tội được cho bà mẹ và bà cố của Thầy đã 80 tuổi.

Ngày 16-7-1645, đoàn Thầy Giảng bị bắt, thầy I-nha-xô và thầy Vinh sơn bị xử tử hình, 7 thầy còn lại mỗi người bị chặt mất một ngón tay, vào thời chúa Công Thượng Vương.

Qua đoạn Giáo sử (tóm lược) nói trên, có thể quyết đoán vùng Vĩnh linh đã được truyền giáo dưới thời linh mục Perdo Mattos, đồng thời có các thầy trong đoàn Thầy Giảng do thầy I-nha-xô Trưởng đoàn cùng giảng đạo ở đây do cha Ðắc lộ gửi đến vào ngày 15-01-1644.

Qua 310 năm (1644-1954) truyền giáo, người công giáo vùng Vĩnh linh chịu nhiều gian nguy khổ nạn do nhiều đạo dụ của các triều đại Cảnh Thịnh (Tây sơn), Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức (Nhà Nguyễn).

Vụ khủng bố ngày 6 tháng 6 năm 1838:

Lúc sáng sớm, một toán lính của huyện Vĩnh linh xông vào làng Di loan lục soát tìm bắt cha Candall, Giám đốc Tiểu chủng viện, nhưng linh mục đã trốn thoát được. Quân lính bèn lùng bắt giáo dân ở vùng nầy, đa số chạy thoát được, một số bị bắt và bị hăm dọa tra tấn, mục đích để buộc giáo dân bỏ đạo`và khai báo chỗ ẩn náu của cha Candall. Vì sợ chịu không nổi cực hình nên số bị bắt tuân lệnh xuất giáo. Duy chỉ chú TômaTrần văn Thiện, một chủng sinh Tiểu Chủng viện An ninh, sinh năm 1820 tại làng Trung quán tỉnh Quảng bình, đã không chịu bỏ đạo, bị dẫn về thị xã Quảng trị và chịu tra tấn rất dã man. Ngày 18-9-1838, vua Minh Mạng châu phê bản án tử hình. Ngày 21-9-1838, chú Thiện bị lính triều đình thắt cổ “Tử Vì Ðạo” tại pháp trường làng Nhan biều, tỉnh Quảng trị.

Vụ Văn thân tàn sát người Công giáo năm 1885:

Biến cố chính trị dẫn đến vụ tàn sát người có đạo Công giáo:

Vua Tự Ðức không con, lập di chiếu chọn Ưng Chân con của Thụy Thánh Vương Hồng Y lên nối ngôi và cho gọi ba ông Trần tiển Thành, Tôn thất Thuyết và Nguyễn văn Tường vào để ký thác tự quân. Ngày 16-7-1883 vua Tự Ðức băng hà, ngày 19-7-1883 làm lễ tấn tôn Ưng Chân lên ngôi lấy hiệu là Dục Ðức. Ba ngày sau đó, hai ông Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết phế vua Dục Ðức, bắt giam vào ngục, bỏ đói đến chết. Quan Ngự sử Phan đình Phùng lên tiếng chỉ trích liền bị hai ông Tường và Thuyết cho lính trói lại và hạ ngục. Các quan trong triều khiếp sợ không ai dám hó hé nửa lời.

“Thấy lời ai nấy sởn ghê,
Sốt gan Tường Thuyết truyền đè xiềng ngay “ (Hạnh Thục ca)

Từ đó hai ông Tường và Thuyết lộng quyền lấn át triều đình, tôn em ruột vua Tự Ðức là Hồng Dật lên làm vua hiệu là Hiệp Hòa vào ngày 2 tháng 6 năm Quí Mùi (1883). Vua thấy hai ông Tường và Thuyết lộng quyền nên bí mật tìm cách loại bỏ hai Ông. Việc bị lộ, hai Ông sai người giết vua Hiệp Hòa vào đêm 29 tháng 10 năm Quí Mùi (1883).

Giết xong vua Hiệp Hòa, hai ông Tường và Thuyết tôn người con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức là Kiến Phước lên làm vua vào ngày 3 tháng 11 năm Quí Mùi (1883). Kiến Phước làm vua được 8 tháng thì mất, nghi là bị đầu độc. Hai Ông đưa Ưng Lịch 14 tuổi lên làm vua vào ngày 01 tháng 8 năm 1884, hiệu là Hàm Nghi. Nhà vua còn nhỏ, chỉ ngồi làm vì, mọi việc triều chính đều do hai ông Tường và Thuyết định đoạt. Về đối ngoại, hai Ông đã thiếu khôn khéo trong cách ứng xử với tòa Khâm sứ Pháp đang có nhiều hành vi sách nhiễu, hống hách và cho tổ chức các cuộc tập trận để diễu võ dương oai làm xáo động kinh thành Huế. Nhóm người Pháp ở đây lộng hành, ỷ sức mạnh hiếp đáp quan chức của chính phủ ta, đòi triều đình phải nạp chiến phí trị giá 20.000 thoi vàng, 200.000 thoi bạc và 200.000 quan tiền.

Ðêm 4 tháng 7 năm 1885, lợi dụng lúc Pháp tổ chức dạ tiệc, ông Tôn thất Thuyết cho lệnh tấn công đốt cháy các trại ở Tòa Khâm, đánh vào đồn Mang cá, đại bác từ các pháo đài ta trên cửa thành bắn sang làm cho Tòa Khâm sập gần hết, nhiều quan binh Pháp chết, mãi đến gần sáng quân Pháp mới củng cố được và phản công, nã đạn pháo và tấn công vào Thành Nội. Quân ta kháng cự mạnh mẽ nhưng vì khí giới kém nên rút lui và tan rã dần. Quân Pháp tiến vào đốt cháy bộ Binh và bộ Lại. Dân chúng trong thành chạy tán loạn, bị lính Pháp tàn sát dã man. Hai quan phụ chánh Nguyễn văn Tường và Tôn thất Thuyết thấy thất bại,vội phò vua Hàm Nghi và tam cung chạy ra phía Kim long rồi đi mãi ra Quảng trị.

Việc hai ông Tường và Thuyết đánh Pháp, lưỡng cung và vua Hàm Nghi chẳng biết một tí gì. Sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, thấy quân ta bại trận, ông Thuyết mới tâu lên Hoàng Thái hậu, Bà đành lên kiệu rời kinh thành. Tiếp đó, ông Thuyết vội giục vua Hàm Nghi xuất sơn, lúc đó vua còn nhỏ chẳng biết gì, không chịu đi và nói “Ta có đánh với ai đâu mà chạy”. Ông Thuyết không nói, sai lính vực vua lên kiệu, thoát nhanh lên Kim long.

Cảnh vua quan triều đình Huế chạy loạn thật thê thảm. Gần 10.000 người, nam phụ lão ấu, trong đó có nhiều ông hoàng bà chúa xưa nay sống trong cung điện, nay phải kéo lê đôi chân vất vưởng vật vờ trên đường chạy loạn, chịu không nổi cảnh khổ nên sáng ngày 9 tháng 7 năm 1885 phải trở về Huế.

Riêng vua Hàm Nghi buồn bã theo ông Tôn thất Thuyết ra Tân sở thuộc huyện Cam lộ, tỉnh Quảng trị. Tại đây, ông Tôn thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi ra một chiếu thư gọi là “Hịch Cần Vương”. Tờ hịch có đoạn như sau: “.....Trước hết phải bài trừ bọn giáo dân để thắng quân Pháp sau nầy, vì chính những giáo dân nầy đã cùng với giặc Pháp cấu kết phản lại ta. Cuộc tập công đêm 22 rạng 23 tháng 5 năm Ất Dậu đã giết được một số lớn giặc Pháp, tuy nhiên dân chúng vì quá đông cũng chết rất nhiều. Nay lúc Nguyễn văn Tường thay lòng đổi dạ trốn vào nhà giáo Kim long... .. Tường lại theo giặc đối đầu, lại mạo chữ ký của Thái Hậu để dụ ta.....”

Lúc vua Hàm Nghi còn ở Tân sở (Quảng trị) thì ông Nguyễn văn Tường ra đầu thú Pháp. Còn ông Tôn thất Thuyết đem vua ra căn cứ địa Ấu sơn thuộc làng Phú gia, Hương khê, tỉnh Hà tịnh, để hai con trai lại phò vua, còn Ông trốn sang Trung hoa cầu viện. (Theo sách 13 Vua Nhà Nguyễn).
Hịch Cần vương được ban hành khi vua Hàm Nghi mới 15 tuổi, chính ông Tôn thất Thuyết là tác giả. Nội dung hịch: Kể tội giặc Pháp, hô hào cả nước chống giặc Pháp và bài trừ bọn giáo dân.

Việc chống giặc Pháp:

Tháng 8 năm Bính Thân (1856) là năm Tự Ðức thứ 9, quân Pháp bắn phá các đồn lũy của ta ở Ðà nẳng rồi bỏ đi. Pháp thực sự đánh chiếm Việt nam khởi từ tháng 7 năm Mậu Tuất (1858) là năm Tự Ðức thứ 11, quân Pháp vào Ðà nẳng hạ thành An hải và thành Tôn hải. Sau đó chiếm Gia định, Ðịnh tường, Biên hòa, Vĩnh long, rồi toàn bộ Nam kỳ, dần dần thôn tính Bắc kỳ. Sau đó đặt nền đô hộ theo hòa ước năm Quí Mùi (1883).

Vua Tự Ðức tự phê trong suốt 36 năm trị vì như sau: ".... Ôi! dốt nát mà quen sống yên ổn, mong muội mà ở chốn nhà cao cửa rộng, chẳng biết phòng bị, tôi tài tướng giỏi cũng đã tàn tạ hơn phân nủa.....Các triều đại dày công khó nhọc mở mang đất đai, bỗng nhiên một sớm thấy giao cho địch... .. Nhưng không sáng suốt trong việc biết người, ấy là tội của ta.....”

Cuộc xâm lăng của Pháp kéo dài 27 năm, từ 1856 là năm Pháp đánh phá Ðà nẳng đến năm 1883 là năm triều đình Huế ký hòa ước nhận sự bảo hộ của Pháp. Trong hai mươi bảy năm, triều đình đã không lo tái tổ chức quân đội và huấn luyện quân sĩ chống ngoại xâm. Bởi vậy tình hình ngày càng nguy cấp, vua quan giữ lấy thói cũ, bài bác các đề nghị canh tân để phú quốc cường binh hầu bảo vệ đất nước. Năm Bính Dần (1866) là năm Tự Ðức 19, ông Nguyễn trường Tộ, một người công giáo, dâng mấy bài điều trần, kể hết tình thế nước mình, rồi xin vua phải mau mau cải cách mọi lãnh vực thì không mất nước. Triều đình cho là nói càn. Ông còn đề ra kế hoạch đánh úp Tây, nhưng vua quan chẳng nghe. Linh mục Ðặng đức Tuấn dâng lên vua bản điều trần “Hoành Mao Hiến Bình Tây” ( Sách lược đánh giặc Tây), Vua xem rồi bỏ qua.

Bài trừ bọn giáo dân: Vua Minh Mạng trước lúc lên ngôi đã tuyên bố “Ta ghét đạo của người Âu châu. Ta sẽ cấm và trừ cho triệt đạo ấy” (Louvet: La Cochinchine religieuse). Sau 5 năm lên ngôi trị vì, năm 1825, vua ra dụ cấm đạo. Ngày 6-01-1833, vua ra sắc dụ cấm đạo toàn quốc. Tiếp theo sau là các sắc dụ cấm đạo ban hành năm 1836 và 1838. Năm 1841 vua Minh Mạng chết vì bị té ngựa. Các vua Thiệu Trị và Tự Ðức kế vị cũng ra nhiều đạo dụ cấm đạo.

Nhiều giáo sĩ và giáo dân bị xử tử, trong đó có một số quan quân của triều đình như ông Ðội Tống viết Bường,v.v... Các vị đã từng tuyên bố “Tôi sẵn sàng đi đánh Tây nhưng không thể bỏ đạo”. Vua quan bắt bớ, tra tấn, hành hạ, tù đày, chém giết, nhưng người công giáo vẫn cầu nguyện cho vua quan trong mỗi buổi kinh sáng chúa nhật: “Xin Chúa lòng lành phù hộ cho đức vua chúng tôi cùng các quan văn võ quần thần, nhất là quan nhậm xứ nầy, thảy đều an trị... ” Khi tra tấn, đánh đập, kềm kẹp. họ vẫn chịu dựng, không than van, khi xử tử họ chết vui vẻ hiền lành, chết trong lời cầu nguyện. Họ trung tín với Thiên Chúa và trung thành với vua cho đến chết. Họ không phản quốc, không chống vua, không bán nước, không phạm tội hình sự. Thế mà vua quan ta lại nhẫn tâm giết hại người công giáo Việt nam, con dân của mình. Họ chết chỉ vì không chối bỏ đạo.

Trong lúc quốc gia lâm nguy, thực dân Pháp đang xâm chiếm đất đai, thay vì phải nổ lực tạo đoàn kết, chống ngoại xâm, vua quan ta lại đi tróc nả chém giết giáo dân vô tội, gây chia rẽ và gieo hận thù trong nhân dân. Lỗi ấy vua Tự Ðức đã tự phê: “.....Bỗng nhiên một sớm thấy giao cho địch.....Nhưng không sáng suốt trong việc biết người, ấy là tội của ta.....”

Xin trở lại Hịch Cần Vương:

Hịch được ban ra, lập tức các bậc khoa bảng (gọi là Văn thân) triệu tập nghĩa sĩ, rèn đúc gươm giáo, thay vì đi giết giặc Pháp họ lại phất cờ gióng trống đi giết người có đạo Công giáo, đồng bào với họ. Tại vùng Vĩnh linh (Cửa Tùng, Quảng trị) giáo hạt Ðất Ðỏ, trong ngày 06-09-1885, Văn thân thăm dò quanh các họ đạo và bắt đầu tấn công vào 2 ngày sau đó:

Ba họ (giáo xứ) Gia môn, Cao xá và An lộc: Buổi sáng ngày 08-09-1885, quân lính Văn thân xông vào cướp của đốt nhà, lùa giáo dân vào nhà thờ, chất rơm đốt, thiêu sống khoảng 500 giáo dân Gia môn. Hai họ Cao xá và An lộc gồm khoảng 60 giáo dân cũng bị chết thiêu cùng lúc với Gia môn.

Hai họ Ba ngoạt và Hòa lạc: Nghe tin Văn thân sắp sửa tàn sát công giáo Ba ngoạt, linh mục chánh xứ là cha Thới chạy trốn ở Quảng bình, giáo dân bơ vơ kinh hải. Ngày 8-09-1885, có độ 150 người Ba ngoạt và độ 60 người Hòa lạc chạy ra Quảng bình trốn trong lúc Văn thân giục trống liên hồi, tràn vào Hòa lạc cướp của giết người, đốt nhà giáo dân và nhà thờ. Tiếp đó, Văn thân càn quét giáo xứ Ba ngoạt, lùng sục của cải, đốt nhà, chém giết khoảng 400 giáo dân cuả hai giáo xứ nầy.

Họ nhánh Liêm công: Sau khi tàn sát xong các họ đạo Cao xá, Gia môn, trên đường di chuyển về đánh phá Di loan, quân lính Văn thân đã chém giết vài chục giáo dân Liêm công, một họ nhỏ nằm trên trục giao thông Chợ Huyện - Cửa Tùng.

Họ An do Tây : Tàn sát xong Liêm công, quân Văn thân kéo đến An do Tây giết hại khoảng 15 giáo dân.

Bốn họ An bằng, An lễ, An ngãi và An trí: Trước khi tấn công Di loan, quân lính Văn thân lùng sục họ đạo An bằng, bao vây nhà thờ, dùng mác đâm chết khoảng bốn, năm chục giáo dân. Ðốt nhà dân và nhà thờ. Ba họ An lễ, An ngãi, An trí cũng đồng thời bị Văn thân tàn sát độ 150 giáo dân vào ngày 08-09-1885.

Hai họ Loan lý và Hòa ninh: Hai giáo xứ nầy liên cư với Di loan, vì vậy, khi Văn thân tấn công Di loan thì đồng thời cũng tàn sát hai họ nầy vào ngày 10-9-1885. Chủ đích của quân Văn thân là giết người có đạo, cướp của và đốt phá nhà dân và nhà thờ. Khoảng 50 giáo dân họ Loan lý bị lùa đến một vùng đất trống, bắt đào hào rồi xô giáo dân xuống hào, lính Văn thân đứng trên bờ hào dùng lưỡi đòng đâm từng nạn nhân rồi rải rơm lên đốt. Sau khi tình hình đã tạm ổn, những giáo dân sống sót hồi cư đã xây tại nơi hành quyết nầy một “Lăng Tử Vì Ðạo”. Họ Hòa ninh cũng gần 50 giáo dân bị giết, nhà cửa bị thiêu đốt hoàn toàn.

Họ Di loan: Từ ngày tàn sát giáo dân các họ Gia môn, Cao xá, An lộc, Ba ngoạt, Hòa lạc, Liêm công, An do tây, An bằng, An lễ, An ngãi, An trí, Loan lý và Hòa ninh, đội quân Văn thân đã chém giết gần 1300 giáo dân, họ chịu chết mà không chống cự lại.

Nhưng khi đến tấn công Di loan và An ninh, quân Văn thân gặp sức kháng cự mảnh liệt. Di loan là một làng công giáo toàn tòng có từ lâu đời, hương chức trong làng đều có đạo. Di loan có chung ranh giới với làng Tùng luật, một làng toàn lương, dân tình hiền hòa, giữa hai làng không có hận thù gì, nhưng khi được Văn thân khích động, cổ võ và tuyên truyền rằng Di loan và Tiểu chủng viện An ninh có nhiều của cải, tấn công vào, ai muốn lấy gì tùy sức. Văn thân vừa dọa nạt vừa khuyến dụ nên một số dân làngTùng đã a tòng theo Văn thân, đàn ông cầm giáo mác, đàn bà thì triêng gióng thúng mủng đi theo lính Văn thân để hôi của.

Ngày 08-09-1885, Văn thân vây đánh Di loan, chém giết một số giáo dân nhà ở rìa làng, nhưng khi tiến sâu vào làng, bị giáo dân kháng cự mảnh liệt, Văn thân rút lui.

Ngày 09-09-1885, Văn thân tái chiến, giáo dân xuất kích đuổi đến làng Tùng luật.

Ngày 10-09-1885, Văn thân đánh lần thứ ba, giáo dân phản công kịch liệt, quân Văn thân rối loạn hàng ngũ phải tháo chạy.

Ngày 12-09-1885, đội quân Văn thân được tăng viện quân số và vũ khí. Trong khi Di loan kháng cự suốt bốn, năm ngày, một số giáo dân bị thương hay tử thương, một số trốn thoát ra Ðồng hới (Quảng bình) hay Huế, vì thế số chiến hữu bị giảm sút. Về mặt chiến thuật cần có vị trí vững chắc, địa thế thuận lợi, có đủ lương thực và đông chiến hữu, vì vậy, linh mục Ðăng (Dangelzer) chính xứ Di loan quyết định di chuyển hơn 1.000 giáo dân Di loan, gồm mọi thành phần nam phụ lão ấu, tập trung về Tiểu chủng viện An ninh.

Ngày 13-09-1885, tấn công lần nữa vào Di loan nhưng chỉ thấy vườn không nhà trống, Văn thân liền phá bình địa Di loan, thiêu hủy tất cả nhà dân, nhà thờ, cướp toàn bộ của cải, thóc gạo, áo quần, trâu bò, heo gà...

Họ An ninh và Tiểu chủng viện An ninh: Ngày 10-09-1885, Văn thân đánh Di loan nhưng thất bại, họ lui về đánh Tiểu chủng viện An ninh, không thắng, trên đường rút lui họ đốt nhà thờ An ninh, rượt bắt và chém giết nhiều giáo dân. Quân Văn thân còn tấn công mấy lần nữa nhưng đều thất bại.

Trong khoảng thời gian nầy, một thuyền từ một giáo xứ ở Ðồng hới (Quảng bình) vào Cửa Tùng, cập bến Di loan, chuyển đến Tiểu chủng viện An ninh 2 súng tiểu thần công, 4 súng nạp đạn tiền và một số đạn dược.

Về phía Văn thân, ngày 18-09-1885, sau khi nhận được khí giới, đạn dược và lính từ Cùa (Cam lộ, Quảng trị) tăng viện và huy động một số dân Tùng luật và các làng lân cận tham gia, số quân lên khoảng 3000 người, Văn thân chuẩn bị một cuộc tấn công lớn vào Tiểu chủng viện An ninh với hỏa hổ, giáo mác, súng thần công, súng trường, quyết một trận thư hùng, dứt điểm ổ kháng cự cuối cùng ở Tiểu chủng viện nầy và san bằng các làng công giáo vùng Cửa Tùng.

Phía Tiểu chủng viện An ninh, linh mục Hòa (Girard), Giám đốc Tiểu chủng viện với sự giúp sức của linh mục Ðăng từ Di loan đến, 5 linh mục khác và 7 chủng sinh đã vạch kế hoạch phản công với 800 chiến hữu cường tráng trang bị bằng giáo mác sẳn sàng quyết tử khi có lệnh xuất kích. Riêng nữ giới chuẩn bị nước để dập tắt các đám cháy do Văn thân sử dụng hỏa hổ đốt phá hàng rào nơi chiến hào. Người giáo dân lúc nầy ý thức rằng: chống cự được thì sống còn, nếu thất bại thì tiêu vong mấy ngàn sinh mạng.

Chiều hôm ấy, 18-09-1885, một buổi chiều quyết định sự thắng bại tồn vong của đạo Công giáo vùng nầy, bởi Văn thân quyết tâm làm cỏ, nhổ sạch, không còn một tên công giáo sống sót ở đây. Quân Văn thân bao vây tứ phía, la hét ầm ĩ, xông tới chiến hào, hỏa hổ sắp khạc lửa đốt cháy hàng rào, quân lính toan vượt chiến hào tràn ngập cứ điểm để tiêu diệt toàn bộ người có đạo tại Tiểu chủng viện An ninh.

Giờ quyết định đã điểm, ba tiếng trống lệnh vừa dứt, các cửa chiến hào lập tức đồng loạt mở tung, 800 chiến hữu công giáo trang bị giáo mác đồng loạt ào ạt xung kích tốc chiến, súng thần công từ trong Tiểu chủng viện bắn ra yểm trợ. Ðội quân Văn thân, một đội quân ô hợp, khiếp đảm tháo chạy, để lại 2 súng thần công, 2 súng trường, hỏa hổ, đạn dược và một thùng lương thực. Trận nầy, phía giáo dân mất 10 chiến hữu, địch thiệt 85 mạng.

Sau trận nầy, Văn thân còn tái chiến nhiều lần nữa, nhưng càng đánh càng thua, để lại 30 tử vong, 3 súng thần công, 1 súng phá lũy, 6 súng trường, nhiều giáo mác, 7 cái cáng, 1 con ngựa, nhiều đạn dược, hỏa hổ và 1 ấn tín của cấp chỉ huy.

Ngày 02-10-1885, quân Pháp dẹp loạn, đánh đại đồn Văn thân ở Tân trại. Gần 3000 quân Văn thân tháo chạy. Chính quyền vãn hồi an ninh, tái lập trật tự. Chấm dứt tình trạng hỗn loạn.

Sau một tháng bị bao vây, 7 lần chống cự quyết liệt, 800 chiến hữu công giáo đối đầu với khoảng gần 3000 quân lính của Văn thân. Kết cuộc, Văn thân bị 200 tử thương, khoảng 1300 giáo dân Vĩnh linh bị giết dọc đường, tại nhà hay tại nhà thờ vào lúc Văn thân mới nổi dậy.

Sau khi an ninh được vãn hồi, giáo dân lần lượt trở về nhà đã bị đốt cháy, chôn cất hàng chục, hàng trăm tử thi của đồng đạo trong giáo xứ bị Văn thân giết và lo tạo dựng lại cơ nghiệp.

Sau vài chục năm vất vả, người công giáo Vĩnh linh xây cất thánh đường bằng gạch ngói thay cho nhà thờ tranh tre, xây dựng trường học giáo lý, nhà cha sở, hội quán, may sắm cờ phướn, lập hội hát (ca đoàn), đội trống, hội Nghĩa binh Thánh Thể, tổ chức các cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa, kiệu Môi khôi, kiệu lễ Ðức Mẹ Mông triệu Thăng thiên,v.v...

Cuộc hành trình trên 350 năm gian khổ với những chứng tá khí phách anh hùng: Thầy Giảng I-nha-xô người Liêm công Tử Vì Ðạo năm 1645, Thánh Tô-ma Thiện, chủng sinh An ninh, Tử Vì Ðạo năm 1838 và gần 1300 giáo dân hạt Ðất Ðỏ bị Văn thân thảm sát Tử Vì Ðạo năm 1885. Máu các vị Tử Vì Ðạo đã thấm sâu vào mạch đất nầy nảy sinh nhiều hoa trái tốt đẹp cho Giáo hội nói chung và Giáo phận Huế nói rìêng.

Quá trình xây dựng và phát triển trong khoảng 50 năm an bình (1888-1945), vùng đạo Vĩnh linh được tổ chức thành Giáo hạt, gọi là “Giáo Hạt Ðất Ðỏ”. Mang tên “Ðất Ðỏ” vì thổ nhưỡng địa phương nầy nhiều đất đỏ bazan (6.950Ha trong tổng diện tích 627 Km2 toàn huyện). Giáo hạt Ðất Ðỏ có các Tu viện và các Giáo xứ sau đây: Tiểu Chủng viện An ninh, Phước viện Mến Thánh giá Di loan, Ðan viện Xi-tô Phước sơn và các Giáo xứ: An bằng, An do đông, An do tây, An lễ, An lộc, An ngãi, An ninh, An trí, Ba ngoạt, Cao xá, Cổ trai, Di loan, Gia môn, Hòa ninh, Loan lý, Phan xá, Phước sơn, Quảng xá, Thủy ba. Ba Tu viện,19 giáo xứ với khoảng trên 10.000 giáo dân, một con số tương đối cao (30%) so với dân số huyện Vĩnh linh vào năm 1945 có khoảng 30.000 người trong tổng số toàn quốc 20 triệu đồng bào thời bấy giờ.
(Còn tiếp)

Dương Bỉnh

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2008

Cố Cả Léopold-Michel Cadière (2)


PHÁT HIỆN CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆT NAM TẠI CÁC THƯ VIỆN ÂU CHÂU
Ngày 4 Tháng 12-1910, nhân dịp về Pháp chữa bệnh, ông được Giám Đốc Trường Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội nhờ tìm kiếm một số tài liệu lịch sử liên quan đến sự giao thiệp giữa các chúa Nguyễn và người Âu Châu trong các thế kỷ 16, 17, 18...Ông đã gặp được tại Roma bản chép tay cuốn từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes (thế kỷ 17) và những thư từ trao đổi giữa Nguyễn Phúc Ánh và các sĩ quan Pháp vào cuối thế kỷ thứ 18, những liên hệ giữa Nguyễn Phúc Ánh và Đức Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), bút ký của Giáo sĩ Bénigne Vachet về xứ Đàng Trong...

HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA: THÀNH LẬP HỘI "ĐÔ THÀNH HIẾU CỔ"
Từ năm 1913-1918, Léopold Cadière được cử làm Tuyên Úy Trường Pellerin tại Huế. Thời gian nầy ông đã cùng bạn bè trong giới trí thức Pháp và Việt tại Huế thành lập Hội "Đô Thành Hiếu Cổ" (Association des Amis du Vieux Huế: Hội Những Người Bạn Của Cố Đô Huế) vào năm 1914, và xuất bản Tập San "Đô Thành Hiếu Cổ" (Bulletin des Amis du Vieux Huế: Tập san Những Người Bạn của Cố Đô Huế, gọi tắt là B.A.V.H) mục đích hoạt động văn hóa.

Đây là một Tạp chí Khoa học có giá trị nhất Đông Dương thời đó sau Tập San của Trường Viễn Đông Bác Cổ (Bulletin de l'École Francaise d'Extrême Orient: BEFEO) chuyên viết về các vấn đề văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, tôn giáo, phong tục, mỹ thuật, ngôn ngữ,v.v...Trước 1914, chưa có một Tâp san nào nghiên cứu về Huế có giá trị như B.A.V.H và về sau, những nhà nghiên cứu về Huế vẫn phải dựa vào nó... Những nhà trí thức, nhân sĩ ở Huế thời đó đã cộng tác với B.A.V.H như các cụ Tôn Thất Hân (Thượng Thư), Nguyễn Hữu Bài (Thượng Thư), Nguyễn Đình Hòe, Đào Thái Hanh, Lê Văn Miến (Họa sĩ), Tôn Thất Sa (Họa sĩ), Nguyễn Tiến Lãng, Đào Duy Anh... Người Pháp có: Dumontier, Reyssoneaux, Henri Cosserat...Các Linh Mục Pirey, Morineau, Chapuis, Delvaux...

CHA XỨ DI LOAN (QUẢNG TRỊ)
Nhiệm vụ chính của ông là truyền giáo nên mặc dù hoạt động văn hóa, ông vẫn phải làm nhiệm vụ tôn giáo của mình. Tháng 9-1918, ông được bổ nhiệm về làm Cha Xứ Di Loan (hay Di Luân), quê hương của Đức Giám Mục Lê Hữu Từ thuộc phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, là một nơi đông dân, gần Tiểu Chủng Viện An Ninh (Cửa Tùng), là cơ sở Công Giáo lâu đời và cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử thời các chúa Nguyễn...Ông vừa là Cha Xứ Di Loan vừa là Hạt Trưởng vùng Đất Đỏ (Gio Linh, Vĩnh Linh), vẫn đi thăm các giáo xứ, sinh hoạt tôn giáo mục vụ, giảng dạy cho con chiên. Ở đâu ông cũng chủ trương nâng cao dân trí, giúp các nữ tu dòng Mến Thánh Giá học văn hóa, học nghề để tự túc, tổ chức trồng dâu nuôi tằm, sản xuất tơ lụa, sản phẩm của Di Loan được nổi tiếng khắp Việt Nam, Đông Nam Á và cả ở Pháp nữa.

Tại Di Loan, ông có lập ra một vườn sưu tầm các thứ cây vùng nhiệt đới quý hiếm đem về trồng. Trong số từ 160 - 180 loại cây thì có khoảng 10 loại mà giới thực vật học thế giới chưa hề biết. Ông đã đặt tên cho các loại cây đó. Ông đã công bố trong một tài liệu "Các loại cây cỏ ở Quảng Bình" (Fougères du Quảng Bình) đăng trong Revue Indochinois tập VI (1906) tr.647-660. Tiến Sĩ Chris de Bâle đã có một chuyên khảo về các loại cây do L.Cadière tìm ra.

Cũng trong thời gian nầy, ông được mời vào Viện Viễn Đông Bác Cổ với tư cách là thành viên hoạt động. Mỗi tháng, ông phải từ Di Loan ra Hà Nội họp. Vì thế Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương đã cho phép lập trạm xe lửa gần Di Loan để ông có thể lên tàu suốt Sài Gòn - Hà Nội để dự họp cho kịp giờ.

THUYẾT TRÌNH VỀ "GIA ĐÌNH VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM" TẠI PHÁP
Tháng 3-1928, nhân dịp về Pháp, ông đã tham gia "Tuần Lễ Dân Tộc Học Tôn Giáo" tổ chức tại Luxembourg. Tại đây ông đã thuyết trình về đề tài:"Gia Đình và Tôn Giáo Việt Nam". Ông vẫn tiếp tục đến các thư viện của Hội Truyền Giáo Paris, thư viện Roma, Vatican...để tìm các tài liệu lịch sử liên quan đến Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes và Giáo Sĩ Gaspar Luis, thuộc Dòng Tên ở Macao ngày xưa...

BỊ NHẬT BẮT GIAM 5 THÁNG
Sau hai năm ở Pháp, ông trở lại Di Loan vào đầu năm 1930. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương, ông cùng với các Linh Mục người Pháp bị Nhật bắt giam tại Huế trong 5 tháng. Khi Việt Minh cướp chính quyền, ông được tự do và trở về Di Loan.

BỊ VIỆT MINH BẮT GIAM TRÊN 7 NĂM
Đêm 19-12-1946, toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông bị Việt Minh bắt tại nhà thờ Di Loan đưa ra giam giữ tại Cầu Rầm (Vinh) cùng với 6 Linh Mục người Pháp khác thuộc Giáo phận Huế. Tại Vinh, ông bị quản thúc trong một ngôi nhà đơn sơ, tự canh tác, trồng rau, làm vườn để sống và tất nhiên là thiếu thốn đủ mọi thứ, nhất là thuốc men, quần áo. Một số đã chết tại Vinh. Ngày 13 tháng 6 năm 1953, ông và 14 vị Linh Mục ngoại quốc còn sống sót sau năm 1947, được chính quyền Việt Minh ở vùng kháng chiến trả tự do và trả về cho chính phủ Pháp. Nhưng ông đã xin ở lại Việt Nam. Ông đã yêu cầu chính quyền Việt Minh trả ông về Tòa Giám Mục Huế. Ông và các bạn khác được đưa vào Quảng Bình rồi vào Huế. Đức Giám Mục Gioan Baotixita Urrutia (Đức Cha Thi) muốn cho ông và các Linh Mục người Pháp khác về Pháp chữa bệnh, nhưng ông từ chối và chỉ muốn ở lại Huế để được chết ở Việt Nam như ý nguyện của đời truyền giáo của ông.

VIẾT HỒI KÝ VÀ SỐNG ÂM THẦM CHO ĐẾN HẾT ĐỜI
Thời gian sống tại Vinh (cuối 1946 đến 13/6/1953), ông viết "Souvenirs" (Hồi Ký). Ông đã nhận ra được rằng:

"Tôi cảm ơn Chúa đã cho tôi những năm tháng thoát khỏi mọi công việc để chuyên tâm cầu nguyện".

Thời gian nầy ông đã sống đúng nghĩa của một người tu hành, trung thành với đức tin của mình.

Năm 84 tuổi (1953) ông về Huế, sống tại Tòa Giám Mục âm thầm, chỉ những ai quen biết và thân tình với ông mới lui tới thăm viếng mà thôi. Hằng ngày, ông đọc kinh cầu nguyện, dâng Thánh Lễ...

Trong một bài viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm chịu chức Linh Mục (1942), ông đã nói rằng:

"Tôi đã hiểu người Việt vì tôi nghiên cứu những gì liên quan đến họ. Tôi đã nghiên cứu tiếng Việt ngay từ khi mới đến đây và tôi hiện nay vẫn tiếp tục nghiên cứu (...)Tôi đã nghiên cứu tín ngưỡng lễ nghi tôn giáo, phong tục người Việt, tôi yêu mến người Việt. Tôi yêu mến người Việt vì họ thông minh xuất sắc và tinh thần linh lợi (...) Tôi yêu mến người Việt cũng vì họ trải qua nhiều đau khổ" (Nguyệt San Nguồn Sống, địa phận Huế, số 1 ra ngày 15-7-1958 tr.45: bài "Hoài Niệm Cố Cả" của Ngọc Quỳnh).

GIÂY PHÚT CUỐI
Vào tuổi 86, ông không còn đủ sức đi lại, giao thiệp, chuyện trò với mọi người một cách bình thường nữa. Ông nằm liệt giường kể từ ngày 6 tháng 7 năm 1955 tại nhà hưu dưỡng các Linh Mục, 37 đường Phan Đình Phùng, Huế. Ba ngày sau thì ông mất (10 tháng 7 năm 1955). Ông được an táng trong vườn của Đại Chủng Viện Phú Xuân (Kim Long) nay là Đại Chủng Viện Xuân Bích, Huế.

Về ngày mất của ông, theo tài liệu của Tòa Tổng Giám Mục Huế ghi là ngày 10 tháng 7 năm 1955, trên bia mộ chỉ ghi năm sinh và năm mất. Nhưng các LM người Pháp bạn của ông như Georges Lefas (nguyên giáo sư trường Thiên Hữu Huế trước 1975) và Louis Malleret, ghi là ngày 6 tháng 7 năm 1955.

KẾT LUẬN
Trên 63 năm sống tại Việt Nam, ông đã đóng góp vào việc nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, lịch sử Việt Nam rất lớn. Trong phạm vi một vài trang báo, chúng tôi không thể nói hết được và cũng không thể khai thác hết được tất cả những tài liệu hiện có trong tay.

Chúng tôi chỉ biết bày tỏ tấm lòng ngưỡng mộ một nhà tôn giáo, nhà tu hành, nhà đạo đức, nhà văn hóa, khoa học, sử học đáng bậc thầy, đã hy sinh đời mình vì lý tưởng, vì niềm tin tôn giáo, đã yêu thương đất nước Việt Nam, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam một cách chân thành. Điều đó đã làm cho chúng tôi vô cùng cảm động và yêu thương con người và sự nghiệp văn hóa và đạo đức của ông. Ông đã để lại cho người Việt Nam gồm đủ mọi thế hệ sau ông một kho tàng văn hóa, lịch sử vô giá, giúp cho chúng tôi rất nhiều trong việc tìm lại nguồn gốc văn hóa, lịch sử của dân tộc mình.

Nguồn: www.haingoaiphiemdam.com