Mô hình được dùng để giải mã truyền thuyết Hùng Vương [2] đã dựa vào một quan sát rất thông thường và thực tiễn: “Hai cây đứng cạnh bên nhau trong một khu vườn có thể do những chất bổ dưỡng giống nhau, nhưng phân lượng tức số phần trăm của từng chất một do rễ cây thu hút từ lòng đất hoàn toàn và luôn luôn khác nhau”. Giống như tiếng nói của hai hoặc nhiều dân tộc láng giềng, theo sắp xếp địa lý, có một số từ vựng và cấu trúc giống nhau, và một phần lớn hơn lại khác nhau. Nhưng rất có thể không có vấn đề vay mượn, nhất là trong một quá khứ xa xưa. Chỉ có đóng góp khác nhau của mỗi thành phần sắc tộc đóng góp, tại mỗi quốc gia láng giềng với nhau. Mô hình này được gọi mô hình theo kiểu ‘Cây-và-Đất’, để phân biệt với thứ mô-hình tạm gọi ‘Cây-và-Cành’ thường xuyên được xử dụng từ trước đến nay, nhất là trong nghiên cứu ngữ học.
Hệ luận chính của lý thuyết dựa trên mô hình ‘Cây-và-Đất’ cho rằng tiếng Việt là một hỗn hợp lâu dài của các thứ tiếng thuộc nhiều tộc người khác nhau, với hạ tầng cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ (thành phần chủ lực của tiếng Mường) cộng với khối Đa-Đảo. Chồng chất và đan xen với lớp hạ tầng cơ bản đó là các thứ tiếng xuất phát từ khối Bách Việt xưa ở miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt) trải qua Quảng Tây, Quảng Đông (Tây và Đông Việt) cho đến tận Chiết Giang (Ngô-Việt), Phúc Kiến - Triều Châu (Mân Việt), và Hải Nam, v.v. Và hỗ trợ bằng hai nhóm từ miền cực Bắc nước Tàu, thời Xuân Thu thường gọi khối Đông Di tập trung ở khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay. Đó là hai nhóm khi xưa ưa sống gần gũi nhau: Hẹ (Hakka, tức Hạc Việt) và Miêu-Dao (Miao-Yao hay Hmong-Mien).
Hệ luận quan trọng khác chính là thứ tiếng mà người Việt thường gọi ‘tiếng Hán Việt’, không phải do tiền nhân vay mượn từ những quan quân đô hộ, mà do chính những người Việt cổ thuộc khối Bách Việt xa xưa (kể luôn cả Hạc Việt và những nhóm tương cận), đem sang xứ An-Nam hoà trộn với các thứ tiếng Việt bản địa. Gần như tất cả những âm Hán Việt quen thuộc, kể cả vô số các âm ‘thuần Nôm’, như ‘chúng ta’, ‘tớ’ {xem [4]}, đều có thể truy về các âm thuộc khối Bách Việt xa xưa, mà hậu duệ của họ hãy còn xử dụng ở bên Tàu cho đến ngày nay.
Bài viết này, do đó, sẽ dùng một số từ được xem đặc thù Quảng Trị, gần đây xuất hiện trong một bài báo của Trần Hữu Thuần [18], theo thông tin từ những email của Trần Vĩnh Tường và Nguyễn Quốc Lập, đăng trên báo mạng Talawas, để tiếp tục đưa ra các dẫn chứng hỗ trợ cho lí thuyết về nguồn gốc tiếng Việt ở trên.
Xin được trình bày ‘tầm nguyên’ của từng từ một theo thứ tự bài viết của Trần Hữu Thuần [18].
Áo lá: ‘áo’ là một từ mang gốc Mon-Khmer [?aav], trong đó [?] {hay [’]} thường gọi ‘tắc âm màng họng’, phát lên giữa [uh] và [oh] khi đọc nhanh [uh-oh]. Tiếng Đa Đảo ở Tahiti gọi ‘áo’ là [?ahu’o’omo] và Samoa: [?ofutino], mang âm đầu rất giống ‘áo’. ‘Lá’ là một từ mang gốc Thái [laa] mang nghĩa ‘nhỏ’. Ngày trước, thứ áo lót ‘mai-dô’ cũng được gọi nôm na: ‘áo thun lá’.
Bạo: ‘Bão’ biến chuyển qua lại với ‘Bạo’, cho thấy sự ma-xát giữa các phần-ngữ khác nhau trên vùng đất Việt. Tiếng Việt ở hạ tầng cơ bản, theo lý thuyết ‘Cây-và-Đất’ [1] [2], chính là tiếng Môn-Khmer pha lẫn với tiếng Thái-cổ và Đa Đảo. Một số các ngôn-ngữ liên-quan đến tiếng Môn, như tiếng Chàm ‘chính thức’, tiếng Myanmar, mang 4 thanh điệu (thinh). Tiếng Mon-Khmer cũng như Munda, đặc biệt nhất là Khmer, không có thinh (nhưng có nhấn mạnh như tiếng Anh), hiện còn phản ánh qua tiếng Hải Nam, tiếng Mã Lai, các tiếng Đa Đảo, v.v. Trong khi các thứ tiếng Thái, Tày-Nùng, Mường, Nam bộ, chỉ mang 5 thinh. Biến chuyển qua lại giữa thinh-ngã (Bão) và thinh-nặng (Bạo), cả hai đều thuộc thinh-trầm, cũng là tiêu biểu của tiếng Mường, bởi tiếng Mường (Hoà Bình) không có thinh-dấu-nặng: mũ khà => mụ già (V). ngẽn ngùi => nghẹn ngùi (ngào) (V). pũi => bụi (V).
B’lăng = cùng gốc với tiếng Mã Lai (phần đóng góp: hệ Môn-Khmer): ‘Bulan’. Tiếng Giarai: ‘Blăng’. Tiếng Mường ngày nay: ‘Tlăng’. Từ điển Alexandre de Rhodes [3] ghi hai âm ‘Trăng’ và ‘Trời’, tuần tự, là [Blăng] và [Blời], trong khi ‘Tròn’ (round) lại giống Mường: [Tlòn]. Khác với các lý giải có sẵn từ trước đến nay, chúng tôi không cho rằng tiếng Việt biến chuyển từ ‘Blăng’ qua ‘Tlăng’ rồi đến ‘Trăng’, mà thật ra đó là ba kiểu phát âm có sẵn thuộc ít nhất ba phương ngữ khác nhau trong lòng tiếng Việt cổ. Phát triển quốc-ngữ chính là tác động thống nhất chọn lọc ra ‘Trăng’, khởi sự khoảng đầu thế kỷ 19.
B’lời = Cũng như ‘Blăng’, ký âm theo Nôm của chữ ‘Trời’ thường bao gồm âm [B] qua chữ ‘Ba’ 巴, cho thấy âm ‘nôm-na’ của người khu vực Kẻ Chợ (Kinh) [5] dành cho chữ ‘Trời’ chính là [Blời]. Một trong những lối viết ‘ráp vần’ Nôm của ‘Trời’ là chồng chữ 巴 ‘Ba’ trên chữ 利 ‘Lợi’ [6] => Blợi => Blời.
Bọ = Cha, hay Tía, đều có những từ phát âm tương tự trong các phương ngữ tiếng Hoa, hoặc tiếng Thái: [Po], [Cha] và [Tía]. [Bọ] cũng liên hệ đến [Bố] và [Bu]. Riêng [Bu] cũng chuyển qua lại để chỉ người ‘Mẹ’, hoặc người Vợ. Đặc biệt âm [P] (trong [Po] hay ‘Bọ’) trong nhiều thứ tiếng ở Hoa Nam và Đông Nam Á, thật ra là một thứ âm nằm giữa âm [P] và [B] theo mẫu tự La-tinh. Ký âm quốc-ngữ đã chọn ‘B’ cho một số từ, thí dụ: Po (M) => Bọ (V); Pà đỡ té (M) => Bà đỡ đẻ (V), Pẻnh mỳ (M) => Bánh mì (V). Và âm ‘P’ không được theo sau ngay một nguyên âm (‘pên Tàu’ => ‘pên’ Tàu => bên Tàu), mà phải kèm theo âm hơi thở ‘h’: Phấy (M) => Phẩy (dấu [,]); Phế thái => phế thải (V). Tức các tôn sư quốc ngữ đã đặt ra quy lệ, không dùng âm ‘P’ với một nguyên âm theo sau: Pung => Pung => Bụng.
Ca = Gà, một thứ từ có nhiều phát âm rất giống với từ tương đương ở các phương ngữ Hoa Nam, nhất là Hakka và Hải Nam [Gai]. Thái cũng phát âm tương tự: [Gai] hay [Gaa]. Quảng Đông phát âm như [Cáy], rất giống tiếng Mường: [Ca].
Cẳng = Chân. Thêm một từ nữa: ‘Giò’. ‘Chân’ mang cùng gốc với [jəəng] hay [dzâng], [ajưng] hoặc [chơn] của các phương ngữ thuộc Mon-Khmer, Munda [8] hay Mường. [Cẳng] bà con với [Ka] tiếng Hakka (Hẹ), [Ka-tui] Phúc Kiến, [taKay] tiếng Chăm, hoặc [Kaki] tiếng Mã Lay, và giống nhất với [Kahng] tiếng Tây Tạng. Trong khi ‘Giò’ có thể cùng gốc gác với [zeoi] tiếng Quảng Đông, [giok] Hẹ (Hakka), hay [chiok] Phúc Kiến (Minnan) [9].
Cấu = Gạo: Gần như tất cả các từ liên hệ đến ‘lúa gạo’ đều mang gốc chủng Việt (chi Thái tức Âu), nếu viết tiếng Tàu, viết theo bộ Mễ (xem [2]). ‘Cấu’ (cũng có thể: ‘Cẩu’) có bà con gần với [Cảo] tiếng Mường, [Khẩu] tiếng Tày-Nùng, và [Khao] hay [Gaow] tiếng Thái. Để ý biến chuyển ‘song hành’ giữa tiếng Thái và Việt: ‘Cơm’ [Gaow] mang một lượt hai nghĩa: Cơm (gạo) {cảo chăm: gạo tẻ}, và Bữa ăn {Anh ăn cơm chưa?}.
Cẩy = Vợ. Chữ ‘Vợ’ có thể mang hai gốc khác nhau tùy theo địa phương. Phát âm theo phía Nam [Byợ] rất gần với các âm bắt đầu bằng [B] như [Bu] hay [Bọ]. Phát âm theo kiểu ‘V’ của phía Bắc thì gần sát với [vo] tiếng Hakka mang nghĩa ‘người hầu thiếp’, hay [vuk] (cũng Hakka), tương đương với [wu] quan-thoại mang nghĩa ‘nhà’ (ốc) hay ‘thất’ {thành gia thất, chánh thất (vợ cả)}. ‘Cẩy’ [11] trong khi đó có âm tương ứng trong tiếng Mường là [Cải] hay [Cảy], mang nghĩa ‘Mẹ’ hay ‘Vợ’: Cải con= vợ con, cảy quả= mẹ goá, cảy té= mẹ đẻ.
Cẩy = Cái // con Gái. Âm cuối [y] trong [Cẩy] mang ảnh hưởng khối Mon-Khmer. Tiếng Việt trong trường hợp này đã chọn [i], thành ra [Cái]. Trong tiếng Mường, [Cẩy] {cải / cảy} có thể mang nghĩa ‘cái / con’ (cải pẻnh, cái đốc => cái bánh, cái đò; cảy cả => con cá; cảy ca => con gà), và cũng đồng thời có thể dùng để chỉ: mẹ, vợ, con gái, chị, người đàn bà. Thí dụ: cảy ho = mẹ tôi; con cải = con gái; cải cá = chị cả; cái khà = gái già; cải khon = gái tân; cải roch = chị ruột).
Chạc giợ = dây chỉ / dây nhợ. Âm đầu [Ch] tiếng Mường thường khi tương đương với âm [gi] hay [d] {[y]} phát âm theo phía Bắc hay Hakka là {[dz]}. Thí dụ: chiểng (M) => giếng (V); chiềng (M) => giường (V). Trong khi đó, âm [y] của chủng Thái-cổ hay đa số các phương ngữ tiếng Tàu kể cả Quan-thoại, rất thường tương đương với âm Việt [Nh]. Thí dụ: [ya] => ‘Nha’ (răng –> nha sĩ) [10]. Ở thế kỷ 17, những khu vực Alexandre de Rhodes đi qua và tiếp cận trước khi soạn quyển từ điển tiếng An-nam đầu tiên [3] là những vùng không mang ảnh hưởng Hakka, tức dùng âm [D] như [Y] kiểu Nam bộ, qua dấu ấn [d] => [nh] {xem [3]}: dè dẹ=> nhè nhẹ, dán => nhắn, dả ra => nhả ra; dắc cha mẹ => nhắc cha mẹ; dịn => nhịn (dung thứ [3]). Khi quốc ngữ được xử dụng mãnh liệt vào giữa thế kỷ 19 ở Nam bộ, âm [D] đứng ra thay thế cho cả hai thứ [Y] quan-thoại và [Z] Hakka. Từ đó âm [Nh] xuất thân từ [D] trở lại biến chuyển với [Z] tức [Dz] hay [Gi]. Từ điển Mường [7] có ghi: Chac nhỡ =>dây chỉ {chạc nhợ}=>giây nhợ=> chạc giợ. Để ý, trong tiếng Mường (Hoà Bình), không có dấu nặng [7]: Chac => chạc (V).
Chắc = nhau. Không chắc chắn như vậy. Bởi ‘chắc’ là một từ mang gốc Mon-Khmer và Mường mang nghĩa: thân mình, con người, thân thể, v.v. Trong lối dùng ‘đập chắc’, ta có thể thay thế nó bằng ‘đánh nhau’, nhưng [chắc] chắc không nhất thiết mang nghĩa gốc là ‘nhau’. ‘Đập chắc’ là một lối nói của một số phương ngữ Trung bộ, tương đương với ‘đánh nhau’ phía Bắc, hoặc ‘quýnh lộn’ phía Nam [12]. Tiếng Mường: chắc = người (V), chắc cá = người lớn, chắc khà = người già. Tiếng Mon-Khmer: [tsa?ak] hay [sa?ak] = thân mình.
Chi = gì / sao. Rất phổ quát tại nhiều nơi. Tiếng Mường: cải chi => cái gì.
Chiếng = giếng. Âm [ch] tiếng Mường, nhiều khi tương đương với [g] tiếng Việt. Khảng
Chiêng => tháng Giêng. Chiềng bễnh => giường bệnh. Chiểng = giếng. Chú ý: hai âm bổng [ẻ] (dấu hỏi) và [é] (dấu sắc), ưa biến chuyển qua lại trong tiếng Mường, một thứ tiếng không có kí âm theo a-b-c cho mãi đến sau này.
Choọc = Thọc. Tiếng Việt trước khi quốc ngữ ra đời đại khái có những ‘pha ngữ’ lộn xộn như kiểu ‘Choọc <=> Thọc’. ‘Choọc’ là âm đứng giữa ‘chọc’ và ‘chọt’, tức nhấn mạnh việc không phân biệt âm cuối [c] hay [t], như kiểu Nam bộ. ‘Thọc’ và ‘chọc’ lúc đầu có thể chia sẻ một số ý nghĩa chung, nhưng dần dà tách ra hai cách dùng khác nhau. Điển hình: chọc = tease (trêu chọc / chọc ghẹo); thọc = poke (thọc gậy). Tiếng Mường cũng có ‘chọc’, nhưng không có dấu nặng: [choc]. Việc nhầm lẫn ‘chọc’ với ‘thọc’ có lẽ bắt nguồn từ hai cách phát âm khác nhau của cùng 1 từ Bách Việt: 戳 [tsok] (~ choc) theo kiểu Hẹ / Quảng Đông, và [tshokk] (~ thoc) theo Ngô Việt (Chiết Giang) [9].
Chộ = thấy. Rất có khả năng mang cùng gốc với các từ Thái: [chohm], [jaawng]. Hay [sioki] tiếng Tonga, hoặc [ýô?k] tiếng Chăm. Đặc biệt ‘Chộ’ mang phát âm rất gần với Hạc Việt (tức Hẹ hay Hakka) [chuk] hay [chon], Mân Việt (Phúc Kiến) [chhu], Ngô Việt [tshO], và Hán-Hàn [chok] - viết theo Hán tự: 矚 và 穿.
Chồông = chồng (chất). Cũng có bà con với tiếng Tàu. Hakka đọc [zong] viết khác với quanthoại [chong]-2. Việc thiếu phân biệt âm cuối [an] và [ang] cũng được phản ánh qua khá nhiều phương ngữ Trung Hoa. Thí dụ: Lý An (đạo diễn) => Ang Lee. Lý QuanG Diệu => Lee Kwan Yew. Tinh (sao) => sing (Q. Đ) => chheN (Mân Việt – Phúc Kiến). Thí dụ thêm về thiếu phân biệt âm cuối [c] và [t] ở tiếng Mường: Roch (M) => ruột. Wớch (M) => vớt. Có vẻ việc du nhập phân biệt các âm cuối [t] và [c], [n] và [ng] trong tiếng Việt, khởi xuất từ phương ngữ Mân Việt của khối người hậu thuẫn, hay thuộc thị tộc, nhà Trần.
Chờng = giường. ‘Chờng’ ó ‘chiềng’. ‘Ờ’ hay ‘Iề’ đều là những kí âm ‘gần đúng’ của quốc ngữ, đối với hằng trăm phát âm khác nhau tùy từng làng hay mường bản của thời ‘tiền-quốc-ngữ’. Chiềng bễnh => giường bệnh.
Chu = châu. Đây là một trong những phát hiện đặc biệt của loạt bài Hùng Vương [2]. Ngày trước chúng ta thường nhầm rằng ‘Chu => Châu’ do ở việc kị húy Chúa Nguyễn Phúc Chu. Sự thật không phải vậy. Nó nằm trong định luật về âm tương đương giữa các phương ngữ Bách Việt (xưa) ở Hoa Nam, [Iu] ó [Âu]: ‘Nếu một phương ngữ có phát âm [au] hay [ou] cho một từ, thế nào cũng có một phương ngữ khác phát âm cho cùng từ đó theo âm [iu]’. Thí dụ: tài tử Andy Lau (‘Lau’ đọc theo Hongkong) theo tiếng quan thoại sẽ là Andy Liu {Lau Tak Wa = Liu De Hua = Lưu Đức Hoa}. Âm [ưu] quốc ngữ chính là một thứ âm ‘du di’ nằm giữa [au] và [iu] {[Lưu] giữa [Lau] và [Liu]}. Người Hẹ thiên về [iu]: Đông Châu [dong zhou] họ sẽ đọc như [Dong Chiu]. Lâu ngày sẽ ra khuynh hướng dẹp bớt âm [i] ở giữa, thành ra [Dong Zhu] => Đông Chu. Muà Thu tiếng Tàu đọc [qiu]. Nhưng Quảng Đông đọc [tsau]. Hakka sẽ thu gọn [qiu] thành ra [qu] => Thu. Tuy nhiên hai họ [Zhou] (Châu) 周 và [Zhu] (Chu) 朱 là hai họ hoàn toàn khác nhau trong tiếng Tàu: Chu Nguyên Chương / Chu Dung Cơ – mang họ khác với - Châu Ân Lai / Châu Nhuận Phát / Châu Chỉ Nhược. Tiếng Việt không phân biệt khác nhau giữa hai họ, và thường lầm tưởng khác nhau giữa phát âm Bắc và Nam. Người Rapanui và Maori gọi gió hiu-hiu (breeze) là [hauhau]. ‘Hiu-hiu’ ó ‘hauhau’ cho thấy tổ tiên của họ, rất có khả năng, đã từng có mặt ở Việt Nam và Nam Trung Hoa.
Cộ = củ (khoai). Lại một hoán chuyển giữa các thinh (dấu). Từ điển Mường [7] ghi: cố = củ: Nhúc ca mà kho pỡi cố cỏng điênh ăn lắm / Thịt gà mà kho với củ gừng thì ngon lắm. Cổ = cố, cụ: Pà cổ tôi ta hảo ản môch tlăm thuối / Bà cố tôi gần được một trăm tuổi rồi.
Côi = trên. Tiếng Mường: cổi = trên. Cổi tlời = trên trời, cõi trời; cổi nủi = trên núi. Có thể cùng gốc với Phúc Kiến [kaoiN] nghĩa ‘cao / phía trên’.
Cơn = con + cái. Trước hết, ‘cơn’ => [con] chỉ là một lối kí âm thống nhất của quốc ngữ: [con]. Nhưng theo định luật thông thường của ‘mạo từ’ [12], ‘con’ thường dính với các từ mang tính ‘động-đậy’: con sông, con chó, con gà, con gái, con chim, … và ‘cái’ thường đi với những từ mang tính ‘bất động’: cái bàn, cái ghế, cái hồ, cái đồn, …. ‘Cái’ cũng thường dùng cho những gì trừu tượng: cái lời khuyên, cái tinh thần chậm tiến. Thế nhưng, có một số ngoại lệ có thể giải thích được, một số khác lại không. Thí dụ: mặt trời thường mang ‘giống bất động’: cái mặt trời hôm nay sao nóng thế, cái ông trời thật bất công (giống như: cái thằng cha đó dê thật); nhưng mặt trăng lại dùng với ‘con’ (động đậy): Đầu con trăng = đầu tháng {xem [14]}; Con trăng nay đã tròn (giống như: con mẹ đó lém lắm, con {cơn} nước ròng). Mặt trăng mang giống ‘động đậy’ {‘Con’} [14], có thể giải thích bằng: (a) trăng có dấu chuyển động, khi khuyết khi tròn; (b) trăng liên hệ đến chuyển động thủy triều lên xuống; (c) có thể những nhà thiên văn cổ thời đã biết mặt trăng vận chuyển quanh trái đất trong một tháng. Phân loại ‘cái’ cho ‘trời’ và ‘con’ cho ‘trăng’ hoàn toàn phù hợp với phân loại của tộc Mon-Khmer, chứ không như kiểu người dân tộc Anishinaabemowin (da đỏ) ở Canada [15]. Thế tại sao tiếng Việt lại dùng ‘con dao’ và ‘cái rựa’? Muốn tìm lí giải hợp lý cho câu hỏi này có lẽ ta phải dựa vào ‘luật trung bình’ của toán học. Theo đó những bộ phận cơ thể có phát ra chất lỏng, chất khí (hơi thở) {như lỗ mũi} [15] - hay theo bình quân tương đối có ‘động đậy’ (như bộ phận sinh dục đàn ông) – sẽ mang giống ‘động đậy’ (tạm gọi: giống ‘chổng’), những bộ phận khác sẽ theo giống ‘bất động’. Ngoài ra ‘con dao’ phần lớn cấu tạo do kim loại, lấy từ các quặng mỏ, một thứ ‘đá’ mang cùng giống ‘chổng’ như ‘trăng’ {theo hệ Mon-Khmer} => Con => Con dao. Trái lại, mặc dù ưa đứng chung với ‘Đực’ {đực rựa – xem [16]}, ‘rựa’ phải dùng ‘mạo từ bất động’ là ‘Cái’, bởi chứa phần lớn là gỗ, ở cái cán dài, ít ra trong kiểu dáng ban đầu xa xưa. ‘Gỗ’ (giống như ‘cây’) mang giống ‘cái’, bất động. Giống như ta nói ‘cái cuốc’ bởi cuốc cũng có cái cán bằng gỗ thật dài. Thật ra điểm cần nhấn mạnh ở đây không phải ở chuyện ‘cái / con’ nhưng ở chỗ trong tiếng Mường phân biệt mạo từ ‘cái’ và ‘con’ thường bị nhầm lẫn (lộn xộn) hơn tiếng Việt rất nhiều. Thí dụ: cảy = cái => cảy tlời (trời), cảy tlăng (trăng), cảy khảng (tháng), cảy khảng (trăng), cảy ca (gà),…. Con = con => con ca (gà), con ngươi (ngươi), con thay (ngón tay), con ma Chỡ (ma người Kinh), con ta (cây đa),… Theo thiển ý, điểm lộn xộn này trong tiếng Mường đã cho thấy phân loại giống trong mạo từ ‘con / cái’ không xuất phát từ tộc Thái cổ (tộc Âu-Việt ảnh hưởng chủ lực đến người Mường), mà chính ra khởi nguồn từ tộc Việt-cổ khác cũng thuộc bản địa: Môn-Khmer. Người (Kinh) Việt xử dụng ‘cái / con’ nhuần nhuyễn hơn, và theo sát tộc Việt bản địa: Mon-Khmer.
Hệ luận chính của lý thuyết dựa trên mô hình ‘Cây-và-Đất’ cho rằng tiếng Việt là một hỗn hợp lâu dài của các thứ tiếng thuộc nhiều tộc người khác nhau, với hạ tầng cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ (thành phần chủ lực của tiếng Mường) cộng với khối Đa-Đảo. Chồng chất và đan xen với lớp hạ tầng cơ bản đó là các thứ tiếng xuất phát từ khối Bách Việt xưa ở miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt) trải qua Quảng Tây, Quảng Đông (Tây và Đông Việt) cho đến tận Chiết Giang (Ngô-Việt), Phúc Kiến - Triều Châu (Mân Việt), và Hải Nam, v.v. Và hỗ trợ bằng hai nhóm từ miền cực Bắc nước Tàu, thời Xuân Thu thường gọi khối Đông Di tập trung ở khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay. Đó là hai nhóm khi xưa ưa sống gần gũi nhau: Hẹ (Hakka, tức Hạc Việt) và Miêu-Dao (Miao-Yao hay Hmong-Mien).
Hệ luận quan trọng khác chính là thứ tiếng mà người Việt thường gọi ‘tiếng Hán Việt’, không phải do tiền nhân vay mượn từ những quan quân đô hộ, mà do chính những người Việt cổ thuộc khối Bách Việt xa xưa (kể luôn cả Hạc Việt và những nhóm tương cận), đem sang xứ An-Nam hoà trộn với các thứ tiếng Việt bản địa. Gần như tất cả những âm Hán Việt quen thuộc, kể cả vô số các âm ‘thuần Nôm’, như ‘chúng ta’, ‘tớ’ {xem [4]}, đều có thể truy về các âm thuộc khối Bách Việt xa xưa, mà hậu duệ của họ hãy còn xử dụng ở bên Tàu cho đến ngày nay.
Bài viết này, do đó, sẽ dùng một số từ được xem đặc thù Quảng Trị, gần đây xuất hiện trong một bài báo của Trần Hữu Thuần [18], theo thông tin từ những email của Trần Vĩnh Tường và Nguyễn Quốc Lập, đăng trên báo mạng Talawas, để tiếp tục đưa ra các dẫn chứng hỗ trợ cho lí thuyết về nguồn gốc tiếng Việt ở trên.
Xin được trình bày ‘tầm nguyên’ của từng từ một theo thứ tự bài viết của Trần Hữu Thuần [18].
Áo lá: ‘áo’ là một từ mang gốc Mon-Khmer [?aav], trong đó [?] {hay [’]} thường gọi ‘tắc âm màng họng’, phát lên giữa [uh] và [oh] khi đọc nhanh [uh-oh]. Tiếng Đa Đảo ở Tahiti gọi ‘áo’ là [?ahu’o’omo] và Samoa: [?ofutino], mang âm đầu rất giống ‘áo’. ‘Lá’ là một từ mang gốc Thái [laa] mang nghĩa ‘nhỏ’. Ngày trước, thứ áo lót ‘mai-dô’ cũng được gọi nôm na: ‘áo thun lá’.
Bạo: ‘Bão’ biến chuyển qua lại với ‘Bạo’, cho thấy sự ma-xát giữa các phần-ngữ khác nhau trên vùng đất Việt. Tiếng Việt ở hạ tầng cơ bản, theo lý thuyết ‘Cây-và-Đất’ [1] [2], chính là tiếng Môn-Khmer pha lẫn với tiếng Thái-cổ và Đa Đảo. Một số các ngôn-ngữ liên-quan đến tiếng Môn, như tiếng Chàm ‘chính thức’, tiếng Myanmar, mang 4 thanh điệu (thinh). Tiếng Mon-Khmer cũng như Munda, đặc biệt nhất là Khmer, không có thinh (nhưng có nhấn mạnh như tiếng Anh), hiện còn phản ánh qua tiếng Hải Nam, tiếng Mã Lai, các tiếng Đa Đảo, v.v. Trong khi các thứ tiếng Thái, Tày-Nùng, Mường, Nam bộ, chỉ mang 5 thinh. Biến chuyển qua lại giữa thinh-ngã (Bão) và thinh-nặng (Bạo), cả hai đều thuộc thinh-trầm, cũng là tiêu biểu của tiếng Mường, bởi tiếng Mường (Hoà Bình) không có thinh-dấu-nặng: mũ khà => mụ già (V). ngẽn ngùi => nghẹn ngùi (ngào) (V). pũi => bụi (V).
B’lăng = cùng gốc với tiếng Mã Lai (phần đóng góp: hệ Môn-Khmer): ‘Bulan’. Tiếng Giarai: ‘Blăng’. Tiếng Mường ngày nay: ‘Tlăng’. Từ điển Alexandre de Rhodes [3] ghi hai âm ‘Trăng’ và ‘Trời’, tuần tự, là [Blăng] và [Blời], trong khi ‘Tròn’ (round) lại giống Mường: [Tlòn]. Khác với các lý giải có sẵn từ trước đến nay, chúng tôi không cho rằng tiếng Việt biến chuyển từ ‘Blăng’ qua ‘Tlăng’ rồi đến ‘Trăng’, mà thật ra đó là ba kiểu phát âm có sẵn thuộc ít nhất ba phương ngữ khác nhau trong lòng tiếng Việt cổ. Phát triển quốc-ngữ chính là tác động thống nhất chọn lọc ra ‘Trăng’, khởi sự khoảng đầu thế kỷ 19.
B’lời = Cũng như ‘Blăng’, ký âm theo Nôm của chữ ‘Trời’ thường bao gồm âm [B] qua chữ ‘Ba’ 巴, cho thấy âm ‘nôm-na’ của người khu vực Kẻ Chợ (Kinh) [5] dành cho chữ ‘Trời’ chính là [Blời]. Một trong những lối viết ‘ráp vần’ Nôm của ‘Trời’ là chồng chữ 巴 ‘Ba’ trên chữ 利 ‘Lợi’ [6] => Blợi => Blời.
Bọ = Cha, hay Tía, đều có những từ phát âm tương tự trong các phương ngữ tiếng Hoa, hoặc tiếng Thái: [Po], [Cha] và [Tía]. [Bọ] cũng liên hệ đến [Bố] và [Bu]. Riêng [Bu] cũng chuyển qua lại để chỉ người ‘Mẹ’, hoặc người Vợ. Đặc biệt âm [P] (trong [Po] hay ‘Bọ’) trong nhiều thứ tiếng ở Hoa Nam và Đông Nam Á, thật ra là một thứ âm nằm giữa âm [P] và [B] theo mẫu tự La-tinh. Ký âm quốc-ngữ đã chọn ‘B’ cho một số từ, thí dụ: Po (M) => Bọ (V); Pà đỡ té (M) => Bà đỡ đẻ (V), Pẻnh mỳ (M) => Bánh mì (V). Và âm ‘P’ không được theo sau ngay một nguyên âm (‘pên Tàu’ => ‘pên’ Tàu => bên Tàu), mà phải kèm theo âm hơi thở ‘h’: Phấy (M) => Phẩy (dấu [,]); Phế thái => phế thải (V). Tức các tôn sư quốc ngữ đã đặt ra quy lệ, không dùng âm ‘P’ với một nguyên âm theo sau: Pung => Pung => Bụng.
Ca = Gà, một thứ từ có nhiều phát âm rất giống với từ tương đương ở các phương ngữ Hoa Nam, nhất là Hakka và Hải Nam [Gai]. Thái cũng phát âm tương tự: [Gai] hay [Gaa]. Quảng Đông phát âm như [Cáy], rất giống tiếng Mường: [Ca].
Cẳng = Chân. Thêm một từ nữa: ‘Giò’. ‘Chân’ mang cùng gốc với [jəəng] hay [dzâng], [ajưng] hoặc [chơn] của các phương ngữ thuộc Mon-Khmer, Munda [8] hay Mường. [Cẳng] bà con với [Ka] tiếng Hakka (Hẹ), [Ka-tui] Phúc Kiến, [taKay] tiếng Chăm, hoặc [Kaki] tiếng Mã Lay, và giống nhất với [Kahng] tiếng Tây Tạng. Trong khi ‘Giò’ có thể cùng gốc gác với [zeoi] tiếng Quảng Đông, [giok] Hẹ (Hakka), hay [chiok] Phúc Kiến (Minnan) [9].
Cấu = Gạo: Gần như tất cả các từ liên hệ đến ‘lúa gạo’ đều mang gốc chủng Việt (chi Thái tức Âu), nếu viết tiếng Tàu, viết theo bộ Mễ (xem [2]). ‘Cấu’ (cũng có thể: ‘Cẩu’) có bà con gần với [Cảo] tiếng Mường, [Khẩu] tiếng Tày-Nùng, và [Khao] hay [Gaow] tiếng Thái. Để ý biến chuyển ‘song hành’ giữa tiếng Thái và Việt: ‘Cơm’ [Gaow] mang một lượt hai nghĩa: Cơm (gạo) {cảo chăm: gạo tẻ}, và Bữa ăn {Anh ăn cơm chưa?}.
Cẩy = Vợ. Chữ ‘Vợ’ có thể mang hai gốc khác nhau tùy theo địa phương. Phát âm theo phía Nam [Byợ] rất gần với các âm bắt đầu bằng [B] như [Bu] hay [Bọ]. Phát âm theo kiểu ‘V’ của phía Bắc thì gần sát với [vo] tiếng Hakka mang nghĩa ‘người hầu thiếp’, hay [vuk] (cũng Hakka), tương đương với [wu] quan-thoại mang nghĩa ‘nhà’ (ốc) hay ‘thất’ {thành gia thất, chánh thất (vợ cả)}. ‘Cẩy’ [11] trong khi đó có âm tương ứng trong tiếng Mường là [Cải] hay [Cảy], mang nghĩa ‘Mẹ’ hay ‘Vợ’: Cải con= vợ con, cảy quả= mẹ goá, cảy té= mẹ đẻ.
Cẩy = Cái // con Gái. Âm cuối [y] trong [Cẩy] mang ảnh hưởng khối Mon-Khmer. Tiếng Việt trong trường hợp này đã chọn [i], thành ra [Cái]. Trong tiếng Mường, [Cẩy] {cải / cảy} có thể mang nghĩa ‘cái / con’ (cải pẻnh, cái đốc => cái bánh, cái đò; cảy cả => con cá; cảy ca => con gà), và cũng đồng thời có thể dùng để chỉ: mẹ, vợ, con gái, chị, người đàn bà. Thí dụ: cảy ho = mẹ tôi; con cải = con gái; cải cá = chị cả; cái khà = gái già; cải khon = gái tân; cải roch = chị ruột).
Chạc giợ = dây chỉ / dây nhợ. Âm đầu [Ch] tiếng Mường thường khi tương đương với âm [gi] hay [d] {[y]} phát âm theo phía Bắc hay Hakka là {[dz]}. Thí dụ: chiểng (M) => giếng (V); chiềng (M) => giường (V). Trong khi đó, âm [y] của chủng Thái-cổ hay đa số các phương ngữ tiếng Tàu kể cả Quan-thoại, rất thường tương đương với âm Việt [Nh]. Thí dụ: [ya] => ‘Nha’ (răng –> nha sĩ) [10]. Ở thế kỷ 17, những khu vực Alexandre de Rhodes đi qua và tiếp cận trước khi soạn quyển từ điển tiếng An-nam đầu tiên [3] là những vùng không mang ảnh hưởng Hakka, tức dùng âm [D] như [Y] kiểu Nam bộ, qua dấu ấn [d] => [nh] {xem [3]}: dè dẹ=> nhè nhẹ, dán => nhắn, dả ra => nhả ra; dắc cha mẹ => nhắc cha mẹ; dịn => nhịn (dung thứ [3]). Khi quốc ngữ được xử dụng mãnh liệt vào giữa thế kỷ 19 ở Nam bộ, âm [D] đứng ra thay thế cho cả hai thứ [Y] quan-thoại và [Z] Hakka. Từ đó âm [Nh] xuất thân từ [D] trở lại biến chuyển với [Z] tức [Dz] hay [Gi]. Từ điển Mường [7] có ghi: Chac nhỡ =>dây chỉ {chạc nhợ}=>giây nhợ=> chạc giợ. Để ý, trong tiếng Mường (Hoà Bình), không có dấu nặng [7]: Chac => chạc (V).
Chắc = nhau. Không chắc chắn như vậy. Bởi ‘chắc’ là một từ mang gốc Mon-Khmer và Mường mang nghĩa: thân mình, con người, thân thể, v.v. Trong lối dùng ‘đập chắc’, ta có thể thay thế nó bằng ‘đánh nhau’, nhưng [chắc] chắc không nhất thiết mang nghĩa gốc là ‘nhau’. ‘Đập chắc’ là một lối nói của một số phương ngữ Trung bộ, tương đương với ‘đánh nhau’ phía Bắc, hoặc ‘quýnh lộn’ phía Nam [12]. Tiếng Mường: chắc = người (V), chắc cá = người lớn, chắc khà = người già. Tiếng Mon-Khmer: [tsa?ak] hay [sa?ak] = thân mình.
Chi = gì / sao. Rất phổ quát tại nhiều nơi. Tiếng Mường: cải chi => cái gì.
Chiếng = giếng. Âm [ch] tiếng Mường, nhiều khi tương đương với [g] tiếng Việt. Khảng
Chiêng => tháng Giêng. Chiềng bễnh => giường bệnh. Chiểng = giếng. Chú ý: hai âm bổng [ẻ] (dấu hỏi) và [é] (dấu sắc), ưa biến chuyển qua lại trong tiếng Mường, một thứ tiếng không có kí âm theo a-b-c cho mãi đến sau này.
Choọc = Thọc. Tiếng Việt trước khi quốc ngữ ra đời đại khái có những ‘pha ngữ’ lộn xộn như kiểu ‘Choọc <=> Thọc’. ‘Choọc’ là âm đứng giữa ‘chọc’ và ‘chọt’, tức nhấn mạnh việc không phân biệt âm cuối [c] hay [t], như kiểu Nam bộ. ‘Thọc’ và ‘chọc’ lúc đầu có thể chia sẻ một số ý nghĩa chung, nhưng dần dà tách ra hai cách dùng khác nhau. Điển hình: chọc = tease (trêu chọc / chọc ghẹo); thọc = poke (thọc gậy). Tiếng Mường cũng có ‘chọc’, nhưng không có dấu nặng: [choc]. Việc nhầm lẫn ‘chọc’ với ‘thọc’ có lẽ bắt nguồn từ hai cách phát âm khác nhau của cùng 1 từ Bách Việt: 戳 [tsok] (~ choc) theo kiểu Hẹ / Quảng Đông, và [tshokk] (~ thoc) theo Ngô Việt (Chiết Giang) [9].
Chộ = thấy. Rất có khả năng mang cùng gốc với các từ Thái: [chohm], [jaawng]. Hay [sioki] tiếng Tonga, hoặc [ýô?k] tiếng Chăm. Đặc biệt ‘Chộ’ mang phát âm rất gần với Hạc Việt (tức Hẹ hay Hakka) [chuk] hay [chon], Mân Việt (Phúc Kiến) [chhu], Ngô Việt [tshO], và Hán-Hàn [chok] - viết theo Hán tự: 矚 và 穿.
Chồông = chồng (chất). Cũng có bà con với tiếng Tàu. Hakka đọc [zong] viết khác với quanthoại [chong]-2. Việc thiếu phân biệt âm cuối [an] và [ang] cũng được phản ánh qua khá nhiều phương ngữ Trung Hoa. Thí dụ: Lý An (đạo diễn) => Ang Lee. Lý QuanG Diệu => Lee Kwan Yew. Tinh (sao) => sing (Q. Đ) => chheN (Mân Việt – Phúc Kiến). Thí dụ thêm về thiếu phân biệt âm cuối [c] và [t] ở tiếng Mường: Roch (M) => ruột. Wớch (M) => vớt. Có vẻ việc du nhập phân biệt các âm cuối [t] và [c], [n] và [ng] trong tiếng Việt, khởi xuất từ phương ngữ Mân Việt của khối người hậu thuẫn, hay thuộc thị tộc, nhà Trần.
Chờng = giường. ‘Chờng’ ó ‘chiềng’. ‘Ờ’ hay ‘Iề’ đều là những kí âm ‘gần đúng’ của quốc ngữ, đối với hằng trăm phát âm khác nhau tùy từng làng hay mường bản của thời ‘tiền-quốc-ngữ’. Chiềng bễnh => giường bệnh.
Chu = châu. Đây là một trong những phát hiện đặc biệt của loạt bài Hùng Vương [2]. Ngày trước chúng ta thường nhầm rằng ‘Chu => Châu’ do ở việc kị húy Chúa Nguyễn Phúc Chu. Sự thật không phải vậy. Nó nằm trong định luật về âm tương đương giữa các phương ngữ Bách Việt (xưa) ở Hoa Nam, [Iu] ó [Âu]: ‘Nếu một phương ngữ có phát âm [au] hay [ou] cho một từ, thế nào cũng có một phương ngữ khác phát âm cho cùng từ đó theo âm [iu]’. Thí dụ: tài tử Andy Lau (‘Lau’ đọc theo Hongkong) theo tiếng quan thoại sẽ là Andy Liu {Lau Tak Wa = Liu De Hua = Lưu Đức Hoa}. Âm [ưu] quốc ngữ chính là một thứ âm ‘du di’ nằm giữa [au] và [iu] {[Lưu] giữa [Lau] và [Liu]}. Người Hẹ thiên về [iu]: Đông Châu [dong zhou] họ sẽ đọc như [Dong Chiu]. Lâu ngày sẽ ra khuynh hướng dẹp bớt âm [i] ở giữa, thành ra [Dong Zhu] => Đông Chu. Muà Thu tiếng Tàu đọc [qiu]. Nhưng Quảng Đông đọc [tsau]. Hakka sẽ thu gọn [qiu] thành ra [qu] => Thu. Tuy nhiên hai họ [Zhou] (Châu) 周 và [Zhu] (Chu) 朱 là hai họ hoàn toàn khác nhau trong tiếng Tàu: Chu Nguyên Chương / Chu Dung Cơ – mang họ khác với - Châu Ân Lai / Châu Nhuận Phát / Châu Chỉ Nhược. Tiếng Việt không phân biệt khác nhau giữa hai họ, và thường lầm tưởng khác nhau giữa phát âm Bắc và Nam. Người Rapanui và Maori gọi gió hiu-hiu (breeze) là [hauhau]. ‘Hiu-hiu’ ó ‘hauhau’ cho thấy tổ tiên của họ, rất có khả năng, đã từng có mặt ở Việt Nam và Nam Trung Hoa.
Cộ = củ (khoai). Lại một hoán chuyển giữa các thinh (dấu). Từ điển Mường [7] ghi: cố = củ: Nhúc ca mà kho pỡi cố cỏng điênh ăn lắm / Thịt gà mà kho với củ gừng thì ngon lắm. Cổ = cố, cụ: Pà cổ tôi ta hảo ản môch tlăm thuối / Bà cố tôi gần được một trăm tuổi rồi.
Côi = trên. Tiếng Mường: cổi = trên. Cổi tlời = trên trời, cõi trời; cổi nủi = trên núi. Có thể cùng gốc với Phúc Kiến [kaoiN] nghĩa ‘cao / phía trên’.
Cơn = con + cái. Trước hết, ‘cơn’ => [con] chỉ là một lối kí âm thống nhất của quốc ngữ: [con]. Nhưng theo định luật thông thường của ‘mạo từ’ [12], ‘con’ thường dính với các từ mang tính ‘động-đậy’: con sông, con chó, con gà, con gái, con chim, … và ‘cái’ thường đi với những từ mang tính ‘bất động’: cái bàn, cái ghế, cái hồ, cái đồn, …. ‘Cái’ cũng thường dùng cho những gì trừu tượng: cái lời khuyên, cái tinh thần chậm tiến. Thế nhưng, có một số ngoại lệ có thể giải thích được, một số khác lại không. Thí dụ: mặt trời thường mang ‘giống bất động’: cái mặt trời hôm nay sao nóng thế, cái ông trời thật bất công (giống như: cái thằng cha đó dê thật); nhưng mặt trăng lại dùng với ‘con’ (động đậy): Đầu con trăng = đầu tháng {xem [14]}; Con trăng nay đã tròn (giống như: con mẹ đó lém lắm, con {cơn} nước ròng). Mặt trăng mang giống ‘động đậy’ {‘Con’} [14], có thể giải thích bằng: (a) trăng có dấu chuyển động, khi khuyết khi tròn; (b) trăng liên hệ đến chuyển động thủy triều lên xuống; (c) có thể những nhà thiên văn cổ thời đã biết mặt trăng vận chuyển quanh trái đất trong một tháng. Phân loại ‘cái’ cho ‘trời’ và ‘con’ cho ‘trăng’ hoàn toàn phù hợp với phân loại của tộc Mon-Khmer, chứ không như kiểu người dân tộc Anishinaabemowin (da đỏ) ở Canada [15]. Thế tại sao tiếng Việt lại dùng ‘con dao’ và ‘cái rựa’? Muốn tìm lí giải hợp lý cho câu hỏi này có lẽ ta phải dựa vào ‘luật trung bình’ của toán học. Theo đó những bộ phận cơ thể có phát ra chất lỏng, chất khí (hơi thở) {như lỗ mũi} [15] - hay theo bình quân tương đối có ‘động đậy’ (như bộ phận sinh dục đàn ông) – sẽ mang giống ‘động đậy’ (tạm gọi: giống ‘chổng’), những bộ phận khác sẽ theo giống ‘bất động’. Ngoài ra ‘con dao’ phần lớn cấu tạo do kim loại, lấy từ các quặng mỏ, một thứ ‘đá’ mang cùng giống ‘chổng’ như ‘trăng’ {theo hệ Mon-Khmer} => Con => Con dao. Trái lại, mặc dù ưa đứng chung với ‘Đực’ {đực rựa – xem [16]}, ‘rựa’ phải dùng ‘mạo từ bất động’ là ‘Cái’, bởi chứa phần lớn là gỗ, ở cái cán dài, ít ra trong kiểu dáng ban đầu xa xưa. ‘Gỗ’ (giống như ‘cây’) mang giống ‘cái’, bất động. Giống như ta nói ‘cái cuốc’ bởi cuốc cũng có cái cán bằng gỗ thật dài. Thật ra điểm cần nhấn mạnh ở đây không phải ở chuyện ‘cái / con’ nhưng ở chỗ trong tiếng Mường phân biệt mạo từ ‘cái’ và ‘con’ thường bị nhầm lẫn (lộn xộn) hơn tiếng Việt rất nhiều. Thí dụ: cảy = cái => cảy tlời (trời), cảy tlăng (trăng), cảy khảng (tháng), cảy khảng (trăng), cảy ca (gà),…. Con = con => con ca (gà), con ngươi (ngươi), con thay (ngón tay), con ma Chỡ (ma người Kinh), con ta (cây đa),… Theo thiển ý, điểm lộn xộn này trong tiếng Mường đã cho thấy phân loại giống trong mạo từ ‘con / cái’ không xuất phát từ tộc Thái cổ (tộc Âu-Việt ảnh hưởng chủ lực đến người Mường), mà chính ra khởi nguồn từ tộc Việt-cổ khác cũng thuộc bản địa: Môn-Khmer. Người (Kinh) Việt xử dụng ‘cái / con’ nhuần nhuyễn hơn, và theo sát tộc Việt bản địa: Mon-Khmer.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét