Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2008

Thử Xem Qua Một Số Từ Vựng Quảng Trị (3)

Phản ngựa = bộ ghế ngựa. Cũng không phải đặc thù Quảng Trị, và đều có ghi trong từ điển Huình Tịnh Của [14] và Lê Ngọc Trụ [23]. Thật ra ‘phản’ có thể là một trong nhiều cách phát âm thời tiền quốc ngữ cho chữ ‘ván’, ‘tấm ván’. Có thể là một âm nằm giữa [pán] và [bán] hay [byán]. Quốc ngữ đã kí âm lệch sang [V] => ‘ván’, có lẽ để tránh cảnh đồng âm dị nghĩa với một từ thường dùng hơn: ‘bán’, trong ‘mua bán’. Tiếng Mường: [bản] = [ván]. Cũng giống như ‘Vàm’ (Cỏ Đông) là kí âm quốc ngữ của [Piam]; (khu) ‘Lâm Viên’ quốc-ngữ-hoá từ ‘Lang Bian’, ‘Vốn’ là kí âm của ‘byốn’ hay ‘Bổn’ /‘Bản’: tư bản. ‘Vỡ’ xuất phát từ ‘bể’.

Rạ = rựa. Xin xem phía trên: Lả = lửa. Âm [a] (M) <=> âm [ưa] (V).

Răng = sao. Có thể bà con với [zam] QĐ, [zen] QT. Không có ghi trong hai từ điển xưa [3] [14]. Mang gốc Tày-Nùng [26].

Roọng = ruộng. Tiếng Mường: ‘Rõng’, cho thấy ảnh hưởng phát âm Mường trên cách phát âm [roọng]. Ngoài ra, phát âm [roọng] cho thấy âm vị tại những vùng quê, và mường bản không nhấn mạnh phân biệt âm cuối [n] và [ng] do quốc ngữ đề ra.

Rớ = lưới. Có trong từ điển Huình Tịnh Của [14]. ‘Rớ’ mang âm gần với [Rõ] tức ‘rọ’, thường dùng để bắt cọp, bắt thú vật, hơn là ‘lưới’ để lưới cá, lưới tôm. ‘Rớ’ rất khả năng cùng gốc với 罝 [ze] tiếng Quảng Đông, chỉ cái rọ để bắt các loại thú nhỏ như thỏ, chồn.

Rú = rừng. Rừng và Rú đều là hai từ mang gốc Quảng Đông, viết khác nhau: Rừng = [zeon] 獉, và Rú = [zau] 菆.

Rứa = thế. Có trong tự-vị của Huình Tịnh Của [14]. Có thể mang gốc Quảng Đông: 這 [ze], pha với phát âm Hẹ [za].

Su = sâu. Theo sát biến chuyển [Du] => [Dâu], [Cụ] => [Cậu] ở trên, cũng như biến chuyển giữa [Chu] và [Châu]. ‘Su’ => ‘Sâu’ tương ứng với [siu] Quảng Đông => [siau] Hakka, 潚.

Tam = em. Theo sát từ Hakka (nhóm Siyan, Hailu): 栝 [tiam], mang nghĩa ‘người thuộc đàn em’ [29].

Tê = kia. Rất có khả năng cùng gốc với từ Tày-Nùng [tỉ] mang nghĩa ‘đó, kia’. [Tỉ] Tày-Nùng, là âm tương đương với [bi]-3 quan thoại 彼, mang cùng nghĩa. Để ý, âm thường gọi ‘Hán-Việt’ [tỷ] (= so sánh), tiếng Quan-thoại vẫn là [bi]-3, viết 比, cho thấy biến chuyển từ âm [B] Hoa {bi-3} sang [T] Việt {tỷ} mang ảnh hưởng tiếng Tày-Nùng [26], có bà con gần là tiếng người Choang ở Quảng Tây. Từ thường lầm là Nôm khi dùng để chỉ so-sánh là ‘Bì’ (bì với, phân bì) thật ra chỉ là âm tiếng Hoa比 [Bi]-3, mà người Choang & Tày-Nùng dùng [Tó] cho tương đương. [Tó] sinh ra âm ‘Hán-Việt’ bắt đầu bằng âm [T]: ‘tỷ’; và nguyên âm [ó] cho ra chữ ‘Nôm’: ‘So’. Để ý: ‘tê’ Việt tương đương với ‘tỉ’ Tày Nùng. Tiếng Việt lại có hai từ đó cặp bồ với nhau: ‘tỉ tê’ => kể lể, tâm sự, mang nghĩa ban đầu: ‘nói chuyện nọ kia’.

T’lâu, T’le, T’lời = trâu, tre, trời. Biến đổi [Tr]-Việt sang [Tl] là biến chuyển sang âm tương đương ở phần-ngữ Mường trong tiếng Việt cổ nói chung. Mường đọc: Tlu, Tle, và Tlời. Đặc biệt ký âm theo chữ Nôm cũng dùng âm [l] cho [r], bởi dựa theo cách viết Hán tự [21] [24]. Tuy nhiên, từ điển Alexandre de Rhodes [3] cho biết ‘trời’ tiếng Việt thế kỷ 17 đọc [Blời] chứ không phải [Tlời]. Truy tầm của chúng tôi cho biết âm quốc-ngữ, trên bước đường nhất thống các âm khác nhau - nhất là [Bl] và [Tl] – đã dựa vào âm vận mang âm [R] (thành ra [TR]) của hai nhóm ngôn-ngữ Mon-Khmer & Munda. Từ đó, quốc-ngữ dựa vào vần [TR] của người Việt bản địa tối cổ (Mon-Khmer và Munda) để viết thành: Trâu, Tre, và Trời [25]. Âm [TR] rất hữu hiệu trong việc ký âm luôn cho những từ tiếng ‘Hán’: Trung => [Zhong], Trân => [Zhen], Tri => [Zhi], Trú => [Zhu], v.v.

Thoọc = thọc. ‘Thọc’ đôi khi cũng tương đương với ‘Thọt’ (mặc dù ‘thọt’ ưa dùng với nghĩa khác: ‘thọt chân’), cho thấy thời chưa có quốc ngữ, phân biệt âm cuối [T] và [C] không được nhấn mạnh, tại phần lớn nước Việt.

Trẽn = thẹn. Tiếng Mường: thẽn => thẹn. Theo sát biến chuyển tương đương kiểu: ‘ngẽn ngùi’ (M) => nghẹn ngùi. ‘Trẽn’ cũng có ghi trong tự vị của Lê Ngọc Trụ [23], mang nghĩa ‘ngượng ngịu’, và thường đứng chung với ‘trơ’: ‘trơ trẽn’.

Trốc = đầu. ‘Trốc’ là một từ chia sẻ gốc với các thứ tiếng Thái [ga-lohk] và Mường [Tlốc]. ‘Nhâc tlốc’ = nhức đầu. ‘Tlốc củi’ = đầu con cúi = thủ lợn. ‘Tau tlốc’ = đau đầu. Tiếng Huế phát âm như ‘Trốt’, với âm cuối là [t], thay vì [c]. ‘Trốc’ có vẻ liên hệ ‘ví phỏng’ [1] với ‘trọc’ trong ‘đầu trọc’ mang nghĩa ‘đầu cạo hết tóc’, hay ‘không còn tóc’.

Trốc cúi = đầu gối. ‘Gối’ (chân) tiếng Mường gọi: ‘cổl lãi’. Trước khi có kí âm theo a-b-c của quốc ngữ, âm [cổl] có thể phát âm gần giống với [gối], và [gối] có thể dễ tiến đến [cúi], bởi cả hai âm đầu [c] và [g] đều thuộc loại tắc âm vòm mềm. Trong khi đó, ‘Đầu’ = ‘Trốc’. Do đó, ‘Trốc cúi’ => đầu gối.

Trớng = trứng. Tiếng Mường: ‘Tlởng’ = trứng. Hakka: [lon], [zen], [zan]. Quảng Đông: [leon], [jyun].

Trự = đồng tiền. Từ tiếng Hoa mang nghĩa ‘đồng tiền’ rất giống ‘Trự’ phát âm theo kiểu Quảng Đông: [zyu] 铸. Theo tự vị của Huình Tịnh Của [14]: Trự= đồng tiền. ‘Không có một trự’ (trong túi) = nghèo lắm, túng lắm.

Hung = rất. Lối dùng ‘hung’ cho phó từ ‘rất’ thật ra mang xuất xứ từ bên Tàu, và được xử dụng tại nhiều nơi ở Việt Nam. Chữ [hung] 凶ngoài nghĩa ‘dữ tợn’, ‘xấu’ còn mang nghĩa ‘rất’, ‘cực kì’ [9]. Phát âm Hạc Việt (Hẹ) và Quảng Đông y hệt: [hung]. Thí dụ tiếng Việt: ‘Hôm nay, anh có rảnh hung không?’.

Qua những lí giải tầm nguyên cho những từ Quảng Trị ở trên, chúng ta thấy:

Giống như phân tích về đại từ trong tiếng Việt (tôi, ta, mày, chú, bác, chúng tôi, các anh, v.v.) [4], không có một từ nào ở trên hoàn toàn thuần Việt, tức độc nhất chỉ có tiếng Việt mới có. Hầu hết đều có những từ mang âm tương tự thuộc các phương ngữ khác hoặc ngôn ngữ láng giềng.

Ảnh hưởng âm vận và từ vựng của tiếng Mường trên ‘tiếng Quảng Trị’ rất mạnh. Cho thấy đó là ảnh hưởng xuất phát từ vùng biên giới Lào-Việt, bởi người Lào cũng thường được sắp xếp có chủng chủ lực thuộc Thái-cổ. Trong khi đó, dải đất chạy dài từ nam Thanh Hoá, xuống khu vực Quảng Bình - Quảng Trị, từ lâu đã được xem như bản địa xưa của khối Mon-Khmer [27].

Đặc điểm nổi bật nhất giữa tiếng ‘Việt’ của người Mường, người Tày-Nùng, và các ‘phương ngữ’, đối với tiếng Việt ‘chuẩn’ ở khu vực ‘Kẻ Chợ’ (Kinh) là khác nhau giữa các thinh (dấu). Trong đó thường xuyên nhất thinh sắc miền Kinh ưa chuyển sang thinh hỏi miền ngoài. Khá phù hợp với nhận xét riêng của một thân hữu [28].

Rất nhiều từ, tác giả Trần Hữu Thuần cho là đặc thù Quảng Trị, thật ra cũng là thứ từ được xử dụng thường xuyên ở những vùng khác tại Việt Nam. Bằng chứng là một số lớn những từ này thường có ghi đầy đủ trong các tự điển xưa, như của Alexandre de Rhodes hay Huình Tịnh Của. Cũng giống như một số từ tìm thấy trong một số các tự điển về phương ngữ xuất bản gần đây tại Việt Nam – như bộ tự điển ngót 1000 trang về tiếng Huế của Bs Bùi Minh Đức.

Một vài thí dụ ‘sơ sơ’ ở phía trên cho thấy, tiếng Hán Việt trong cách phát âm của chúng cũng là một thứ tổng hợp các phương ngữ Việt cổ. Xin phép viện dẫn một vài suy luận dùng để hỗ trợ cho kết luận này:

Tiếng Hán-Việt chiếm đến khoảng 60% số từ vựng tiếng Việt, và bất cứ người Việt nào cũng đều xử dụng chúng hết sức nhuần nhuyễn. Những từ điển Mường hay Tày-Nùng cũng tràn đầy một số lớn những từ tương đương với loại từ thường gọi Hán-Việt. Thí dụ: Wa (M)=> Va (T-N)=> Hoa (V).

Nếu muốn cả một dân tộc ‘vay mượn’ mớ từ Hán-Việt đó, bắt buộc trong ngót thiên niên kỷ đầu tiên sau Công Nguyên, xứ An-Nam phải có đầy đủ phương tiện truyền thông, nếu không có internet thì phải có cell-phone, hay Tivi. Hoặc ít lắm phải có nhật báo, hay máy truyền thanh, hay những lớp học bình dân 24/24 dạy tiếng Hán chữ Nho, khắp mọi xóm làng.

Đi ngược lại thời gian, chúng ta thấy phân biệt những thứ từ gọi Hán-Việt với từ thuần Nôm hoàn toàn vắng bóng trong những công trình viết bằng chữ quốc-ngữ đầu tiên, như từ điển Alexandre de Rhodes, những bài viết hoặc sách báo của Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Taberd, Philiphê Bỉnh, Ben-tô Thiện, v.v. Nói một cách khác, những tác giả quấc-ngữ đầu tiên chắc hẳn phải biết độc giả không có phân biệt thứ nào là tiếng Hán Việt và thứ nào là nôm-na ‘lô-can’. Sự phân biệt đó đối với đại đa số quần chúng, dễ rơi vào một cái hố mâu thuẫn. Đó là, một mặt chúng ta thường cho rằng tiếng Hán Việt nói ra nghe uyên bác hơn, và là chữ nghĩa của chốn khoa bảng, quan trường, nhưng một mặt khác chúng ta lại cho rằng nó đến thẳng với những người ít học, đúng hơn không biết chữ, sau nhiều thế kỷ chung sống với những người có tiếng Hán là tiếng mẹ đẻ. Hai chuyện đó rất khó đi đôi với nhau.

Những học-giả đã ‘lăng-xê’ phân biệt giữa Hán-Việt và Nôm trong lòng từ-vựng tiếng Việt, có vẻ thiếu thốn một vài thứ kiểm chứng khoa học. Quan trọng nhất là một thứ định lý khá bất biến như sau: “Khi A vay mượn B một món gì, thì A rất khó xử dụng món đó thông thạo như B”. Ở trên, chúng ta thấy khi người Việt-Mường không phải là tác giả của lối gọi ‘Con / Cái’, họ sẽ xử dụng nó không có được bài bản, và thuần nhất, như người Việt (Kinh), và sẽ khá lộn xộn. Nhưng người Kinh lại xử dụng nó rất thành thạo, bởi họ thừa kế được di-sản của người Việt-Mon-Khmer. Tương tự, bởi tiếng Hán-Việt chính là thứ tiếng (tổng hợp) của người Việt di dân, họ đem toàn bộ, nhất là biến ý, và nhiều nghĩa của từng từ. Thí dụ: ‘hung’ mang nghĩa: hung dữ, hung ác, hung thần, hung tin (tin không lành), và ‘rất’ hay ‘cực kì’ ở tiếng “Tàu” (?). Chuyển sang tiếng Việt, [hung] đem sang toàn bộ ý nghĩa và cách dùng. Nhưng bởi ‘hung’ mang nghĩa ‘rất’ / ‘cực kì’ ưa dùng trong câu nói toàn từ “Nôm” (?) hay ít đi kèm với từ Việt-di-dân, nên xưa nay, ta ưa nhầm ‘hung’ trong nghĩa ‘rất’ là một từ Nôm. Chúng ta cũng lầm tưởng, như vậy, ‘rất’ mới là thuần Nôm. Thật ra, ‘rất’ cũng không phải Nôm! ‘Rất’ là âm quốc ngữ của [zat] 郅 phát âm theo Quảng Đông [9], mang nghĩa ‘very’, ‘extremely’, tức ‘rất’ là Nôm theo kiểu ‘Đông Việt’. Thí dụ khác về việc ‘phản ánh’ toàn bộ, trong chuyện ‘phần-ngữ’: Từ ‘xài’ là một từ cùng gốc với từ Thái [chai], mang hai nghĩa y như tiếng Việt, ‘xài tiền’ (spend money), và ‘xử dụng món đồ’ (use) / ‘Anh có xài điện thoại di động hiệu Nokia bao giờ chưa?’. Nếu đó là vay mượn, rất khó xác định ai vay ai cho mượn, và khi vay thường thường người ta chỉ vay một phần nào của cách dùng mà thôi, chứ ít khi vay hết toàn bộ, và lại xử dụng nhuần nhuyễn như vậy. Thí dụ: Karaoke = Kara (trống) + oke (dàn nhạc); Karate = Kara (trống / không) + Te (tay). Trên thế giới ngày nay ưa vay luôn hai thứ từ này từ tiếng Nhật. Nhưng không tiếng nước nào, như tiếng Việt chẳng hạn, lại vay luôn chữ ‘kara’ để hàm ý ‘Không’.

Sai lầm trong việc nhận diện các từ Hán-Việt và Nôm cũng bắt nguồn từ kiểu học-thuật ngày trước, rất ít khi kiểm chứng với một ngôn ngữ nào khác với tiếng Tàu xử dụng ở Bắc Kinh. Cũng rất hiếm khi đối chiếu với các phương ngữ của Bách Việt xa xưa. Phần lớn là do ở thiếu thốn phương tiện. Thí dụ, tra từ thường lầm tưởng ‘Nôm’ là ‘Đúng’ ở bất cứ quyển từ điển tiếng Hoa nào ta sẽ thấy ít nhất 3 từ Hán quen thuộc là [dui] 對 (đối), [zheng] 正 (chính), và [zhen] 真 (chân). Chúng ta sẽ không ngờ 2 chuyện: (a) ‘Đối’ chính là phát âm Quảng Đông [deoi], ‘chính’ giống như Hakka [zhin], và Mân-Việt [cheng] (chánh), còn ‘chân’ y hệt quan-thoại [zhen]. Và (b) ‘Đúng’ cũng không phải là một từ Việt ‘thuần Nôm’, mà lại là một phát âm y hệt [dung] của Hạc Việt và Đông Việt, cho động từ [dung] 董 tiếng Tàu (?) mang nghĩa ‘sửa cho đúng’.

Sydney, ngày 4 tháng Bảy 2007
Nguyên Nguyên

GHI CHÚ[1] V.U. Nguyen (2007) Loan Words and Metaphorical Field. (submitted for publication).
[2] Nguyen Nguyen (2007) Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương. [In search of the origin of the Vietnamese]. (in publication).
[3] Alexandre de Rhodes (1651) Dictionarium Annamiticum – Lusitanum – Latinum. Translated by: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính. Pub. By Vien Khoa Hoc Xa Hoi – HCM 1991.
[4] V.U. Nguyen (2007) Vietnamese Personal Pronouns. (submitted for publication).
[5] Từ điển tiếng Mường (Hoà Bình) [7] cho biết người Mường gọi người Kinh là người ‘Chợ’ (Kẻ Chợ = Thăng Long): (a) Măng khể rằng nả cỏ vỡ Chỡ = Nghe kể rằng nó có vợ người Kinh. (b) Dich tha thiểng Chỡ = Dịch ra tiếng Việt.
[6] Hội Bảo Tồn Di Sản Nôm (2002) http://nomfoundation.org/
[7] Nguyễn Văn Khang (editor), Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành (2002) Từ Điển Mường-Việt {Mường-Vietnamese Dictionary}. Published by Văn Hoá Dân Tộc – Hà Nội.
[8] L. V. Hayes (2001) Austric Glossary - http://home.att.net/~lvhayes/Langling/Glossary/Glospag1/glosf019.htm
[9] Chinese Character Dictionary - CCDICT v5.1.1 Chineselanguage.org (1995-2006): http://www.chineselanguage.org/cgi-bin/dict.php
[10] Vấn đề các âm chữ cái quốc-ngữ là một chuyện hết sức phức tạp hóc buá. Ngay ở âm [y] cũng vậy. Đa số các âm [y] bên Tàu và Mon-Khmer đều giống kiểu tiếng Anh: Yul Brynner, Yell, v.v. Nhưng một hai nhóm Hakka lại thích kiểu [Z] hơn: Zang Kui Fi (Yang Gui Fei) => Dương (Dzương) Quý Phi. Phúc Kiến lại lột [yờ] biến thành [I] => tiếng Việt [y]: yêu => [iêu]; âu yếm => [âu iếm].
[11] Để ý sự phân biệt dấu hỏi và sắc (đôi khi ngã) rất lộn xộn khi so sánh tiếng Việt miền Kinh (Kẻ Chợ) với tiếng Việt tại các mường bản hay khu vực thôn quê. Thí dụ: ỏng (M) => uống (V); dan tổi (M) => gian dối; dam cẩm (M) => giam cầm; dáng đãy (M) => giảng dạy (V).
[12] Lối nói khác nhau tùy theo phương ngữ. Thí dụ, từ kép tiếng Việt ‘nở phồng’ – tương ứng tiếng Thái [noh] và [pheerng] {Phúc kiến: [pheng]}. Nhưng ‘Hoa đào nở’ tiếng Việt, lại tương đương với: ‘Va (hay [byooc]) tào phồng’ {Hoa đào phồng} trong tiếng Tày-Nùng. Để ý: Va (T-N) => Wa (Mường) => Hoa. Byooc => Pông (M) => Bông (V), trong đó [By] chính là âm ‘V’ phát âm kiểu Nam bộ. Thí dụ khác: Trong tiếng Việt ‘kể’ và ‘nói’ có cách dùng khác nhau. Nhưng trong tiếng Mường, ‘kể’ được dùng như ‘nói’: khể lải = nói lái; khể bẫy = nói bậy; khể nhó = nói nhỏ. ‘Nỏi’ tiếng Mường cũng mang nghĩa như ‘nói’ (Việt) nhưng ưa thiên về ... ‘kể’: nỏi đẳng = nói tích. Nỏi lãi = nói lại. Và ‘kể’ Việt, Mường phát âm là ‘kế’: kế cuông = kể chuyện.
[13] Nguyễn Phục Hưng (2007) Trao đổi tư liệu trên Forum M-C.
[14] Huình Tịnh Paulus Của (1895) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Imprimerie Rey, Curiol & Cie. Re-published by Nhà Xuất Bản Trẻ, 1998.
[15] Trang mạng về tiếng Anishinaabemowin:
http://imp.lss.wisc.edu/~jrvalent/ais301/Grammar/InflMorphology/nouns001.htm
[16] Truyện cổ tích về ‘đực rựa’: http://www.quangduc.com/TruyenNgan/020thamthitham.html
[17] Charles Hamblin (1988) Languages of Asia & the Pacific. Angus & Robertson.
[18] Trần Hữu Thuần (2007) Tiếng Quảng Trị. Xem talawas.org ngày 13/6/07:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10168&rb=06
[19] Tiếng Mường mang âm tương đương [kh] đối với Việt [s]: khong => sông (Mekong => sông Mẹ, sông lớn), khư nữ = sư nữ, khổng lãi = sống lại.
[20] Gerard Moussay, Nại Thành Bô, Thiên Sanh Cảnh, Lưu Ngọc Hiến, Đàng Năng Phương, Lưu Quang Sanh, Lâm Gia Tịnh, Trương Văn Tốn (1971). Tự Điển Chàm-Việt-Pháp (Champa-Vietnamese-French Dictionary). Trung tâm Văn-hóa Chàm - Phan-Rang.
[21] James Campbell (2007) Chữ Nôm Characters: http://www.glossika.com/en/dict/viet/nom-d.php
[22] Tiếng Myanmar (Miến/Diến - Điện) thường được xem bà con hậu duệ tiếng Môn. Thế nhưng cho đến vài năm gần đây người Môn tại Miến Điện vẫn thường bị ‘kì thị’. Truy cứu của chúng tôi cho biết cấu trúc văn phạm tiếng Myanmar lại mang ảnh hưởng khác với tiếng Môn. Đó là tiếng Munda ở Ấn Độ.
[23] Lê Ngọc Trụ (1959) Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị. Thanh Tân.
[24] Thí dụ: Trai (male / boy) viết bằng cách ghép chữ [Nam] 男 với [Lai] 來. Âm [L] trong [Lại] dùng cho [R]: TRAI =男來.
[25] Thí dụ: Trâu <= [trăk] Theng (Munda) & [krâu] Wa (Munda). Trời <= [trôk] Mnong (Mon-Khmer) & [trôôc] Xtieng (M-Kh). {trích từ: Hồ Lê (1992) Từ Nam Á trong tiếng Việt. TRONG: Viện Khoa Học Xã Hội (Th.P. HCM) - Tiếng Việt và các ngôn ngữ Dân tộc phía Nam. Nxb Khoa Học Xã Hội - Hà Nội} [26] Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo – Hoàng Chí (1974) Từ Điển Tày – Nùng - Việt (Tay-Nung-Viet Dictionary). Published by Viện Ngôn Ngữ Học (The Linguistics Institute) [27] Võ Mai Phương (Chu Thái Sơn chủ biên) (2005) Người Dao. Nxb Trẻ [28] Phạm Quang Tuấn [2007] Hai tuần ở Việt Nam (không có xuất bản). [29] Trong những áng văn Nôm của Ức Trai Tiên Sinh (Nguyễn Trãi), người ta thấy Ức Trai vẫn thường dùng ‘anh tam’ thay cho ‘anh em’: "Núi láng giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam" {xem: http://www.vietmedia.com/literature/vanthisi/?ID=5 - Hoặc: trong Quốc Âm Thi Tập: "Tuy rằng bốn biển cũng là anh tam". [30] Trong truyện “Cánh Đồng Bất Tận’, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã dùng động từ: ‘nhóm củi’ ngay ở trang đầu. ‘Củi’ ở đây hoàn toàn mang nghĩa ‘lửa’ theo kiểu tiếng Mường (Hoà Bình), ví-phỏng qua lại với ‘củi’ mang nghĩa ‘cây/cành dùng để nhóm lửa hay đốt’. Nguồn: www.dunglac.org

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2008

Thử Xem Qua Một Số Từ Vựng Quảng Trị (2)

Cụ = Cậu. Tiếng Mường: Cũ = Cậu. Củ = (con) Gấu. Âm [u] => [âu] (V).

Cươi = Sân. Trước hết ‘sân’ là một từ mang gốc Mân Việt (Phúc Kiến): [tsing]. ‘Cươi’ là một thứ từ hiếm có trong những từ điển phương ngữ xa xưa, bởi thời đó, nhà cửa cố định còn không có (đối với đa số), thì nói gì đến sân. Chúng ta chỉ có thể tìm ra những từ có phát âm gần đúng – và loại bớt ảnh hưởng của kí âm quốc ngữ. [Cươi] có thể mang nghĩa ‘cái nền đất’ => ‘cơ’ (xem từ điển Huình Tịnh Của [14]). [Cươi] cũng mang âm gần với ‘Cơi’ mang nghĩa ‘đất cao’ [14]. Hoặc khoảng đất gần ‘Cửa’ hàng rào trước ‘nhà’. ‘Cươi’ do đó có thể mang liên hệ ‘ví phỏng’ với ‘Cửa’ (xem [1] [4]). Gần âm với [ngoue] tiếng Tonga (Đa đảo) mang nghĩa ‘vườn’, hay [kelekele] Tonga, và [qele] Fiji, nghĩa ‘đất’, ‘khoảng đất’. Gần với từ đầu [qab] (đọc [cá]) trong [qab tsib taug] tiếng Hmong chỉ ‘sân’. Cũng gần với [kArug] tiếng Sora (Munda) chỉ ‘sân sau’.

Du = Dâu (vợ con trai). Tiếng Mường, Du = Dâu. Du mỏi = dâu mới cưới. Cho thấy biến chuyển kiểu ‘Chu / Châu’, ‘Tlu / Tlâu (Trâu)’.

Dzầu = *[THầu] = dầu (oil). *[THầu] với [Th] mang âm giống IPA [ð] cho mạo từ ‘The’ {[ðə]} tiếng Anh. Đây có lẽ là vấn đề gút mắt nhất cho âm chữ [D]. Âm chữ [D] cũng như rất nhiều âm khác, như chữ [V], được quốc ngữ đưa ra để thay thế một số các âm gần giống thay đổi theo từng ‘phần-ngữ’ đóng góp tạo nên tiếng Việt và cũng để nhất thống chuyện có nhiều âm vận địa phương khác nhau. Âm quốc ngữ chữ [D], theo thiển ý đã được đề ra thay thế một loạt các thứ âm sau đây:

Âm [Y] theo kiểu quan-thoại và rất nhiều phương ngữ Hoa Nam: Yang Gui Fei => Dương Quý Phi (phát âm theo kiểu Nam). Trong trường hợp này, khi chuyển sang kí âm quốc ngữ, [Y] thỉnh thoảng cũng được viết theo âm [Nh]: [Ya] => Nha (răng). Dức đầu => Nhức đầu. Thời từ điển Alexandre de Rhodes [3] có vẻ quốc-ngữ chưa phân biệt âm [Y] với [Nh]: dè dẹ= nhè nhẹ; dịn = nhịn (dung thứ [3]); yà = nhà; dả ra= nhả ra; dắc cha mẹ= nhắc cha mẹ; dán= nhắn, dúc= túc, ...

Âm [Z] của một số ‘chi-phương-ngữ’ tiếng Hẹ (Hakka, xin tạm gọi nhóm Hạc Việt): Zang Kwui Fi => Dzương Quí Phi (rất giống phát âm Hạc Việt). Trong trường hợp này, [D] cũng đôi khi biến chuyển qua lại với [Gi]: dòng sông => giòng sông. Tiếng Mường: dói => giỏi. Cô dảo => cô giáo.

Âm [Đ] như còn dấu vết trong các thứ tiếng Mường, Tày Nùng, và thường hoán chuyển qua lại với [D]: Đĩa = dĩa (V). Đây = dây (M), giây. Dặng = đứng (T-N). Đảng mõl = dáng người (M). Đãy páo = dạy bảo (M). Từ điển Alexandre de Rhodes cũng cho thấy dấu vết trong tiếng Việt: kín dáo = kín đáo; dắp = đắp (chăn); dạp = đạp (voi đạp); voi đú = voi dữ - tức [Đ ó D].

Âm [T] như trong tiếng Mường: Ta non = da non (M). Con Tê = con dê (M). Tĩa = dĩa = đĩa (M). Tiếng Tày-Nùng: tạy = dạy (học). Rất thường, [T] biến chuyển qua lại với [Đ], bởi cả hai đều thuộc loại ‘tắc âm nứu’ theo kiểu: Teng Hsiao Ping => Deng Xiao Ping: Đặng Tiểu Bình. Mao Tse Tung => Mao Ze Dong: Mao Trạch Đông. Lối dùng [T] là theo phiên âm Wade-Giles, kiểu [Đ] theo pin-yin. Thí dụ khác: Hu Jin Tao => Hồ Cẩm Đào (chủ tịch) => {[T] => [Đ]}.

Thật ra loại bỏ ảnh hưởng kí âm a-b-c, âm đó nằm đâu đó ở giữa [T] và [D]-Tây {tức [Đ]}, theo kí âm cho tiếng Mường: nồi tất = nồi đất; Bừa tẩm bừa tả = vừa đấm vừa đá; tâm rồ = đâm khùng; tầl = đuổi; tèn tó = đèn đỏ. Âm [T] hay [D]-Tây cũng có thể kèm theo [j] như tiếng Miến Điện: [Tj] hay [Dj], cả hai đều có thể tiệm cận với âm quen thuộc [Dz]: con Tjê => con Dê. Miến Điện: [Tje] = tinh-tú (sao). Mường: [tyểnh ni]= đến đây. Myanmar: [Tja] => giá (cả) => Dả (Mường).

Một khi chữ ‘D’ được dùng để kí âm bao-thầu cho một loạt các âm liệt kê ở trên, [D]
trong ‘Dầu’ (oil) có thể tiến sát với âm [đhờ] {tức [ðə]} như trong từ Anh ngữ: ‘the’ hay ‘then’, giống như âm [dh] trong tiếng Myanmar [17] [22]: [dhadì-nè] = carefully, cẩn thận. Dầu = *[THầu]= [ðầu]. Bởi âm [Dh] {tức IPA [ð]} (trong ‘The’) là thứ ‘sát âm răng’ khá gần với ‘tắc âm nướu’, như [Đ] và [T].

Ghi chú thêm: Ngay trong đánh vần chữ Nôm, ta cũng thấy biến chuyển qua lại giữa các âm [T], [D] và [Đ]. Thí dụ: Da = Bì+Đa (D => Đ); Dãi = Tâm+Trãi {D => T} (dãi nắng dầm mưa) [21].

Đao = dao. Xin xem ‘Dầu’ phía trên, và để ý âm tiếng Quan Thoại: [dao] (đao), tương ứng với Hạc Việt (Hẹ / Hakka): [tau], [D] <=> [T].

Đàng = đường. Không hẳn là một thứ âm đặc thù Quảng Trị. Mường gọi [tàng] (tàng tất = đường đất). ‘Đàng’ hay ‘đường’ có cùng gốc với từ Quảng Đông [dung]衕, mang nghĩa ‘ngõ đi’. ‘Đường sá’ đàng hoàng người Hoa gọi ‘đạo’ 道, người Thái và một lô các tiếng gốc Mon-Khmer (kể cả Chăm) và Đa đảo thường thiên về các âm vị mang âm [sá] (trong ‘đường sá’): [saawk] (Thái), [zalan], [kh(r)a] (Mon-Khmer) [8] [19], [salan] (Chăm, Đa đảo) [8] [20]. ‘Đàng’ và ‘đường’ biến chuyển qua lại với nhau, nằm trong một quy luật giữa các phương ngữ Hoa-Nam: [a] <=> [eu] hay [ươ] Việt. Thí dụ: [Yang] quanthoại => [Yeung] QuảngĐông => [Dương] Việt. [Liang] => [leung] => [lượng] / [lạng].

Đặng = được. Xuất phát từ tiếng Tàu. ‘Đặng’ và ‘được’ là lối đọc tiếng Việt (Bách Việt) của hai từ Hoa khác nhau: 打 [deng] Quanthoại {đặng}, và 得 [tiet] Hẹ, [dak] QĐ {đạt}, và [tâ?] Ngô-Việt (tức Chiết-Giang/Thượng Hải).

Đụa = đũa. Biến chuyển dấu ngã sang nặng rất thường xảy ra giữa tiếng Mường và Việt, một phần tiếng Mường (Hoà Bình) không có dấu nặng. Phần khác, trước thời quốc-ngữ phát triển, các thinh thường biến chuyển theo làng xóm, và địa phương. Thí dụ thêm: Lộ = Lỗ (mũi). Thường thường, xin nhấn mạnh ‘thường thường’, thinh trầm theo trầm (ngã ~ biến qua lại với ‘nặng’ hay ‘huyền’), bổng theo bổng. Từ điển Alexandre de Rhodes như trích dẫn nhiều nơi ở trên cho thấy biến chuyển có vẻ lộn xộn hơn.

Eng = Anh. Tiếng Mường: Enh = anh. Tiếng Hàn (Korean) tương đương với ‘huynh’ chính là [hyEng], đọc nhanh có thể rất giống [Eng].
An = Ăn. Giống tiếng Thavung thuộc khối Mon-Khmer: [?an]. Tiếng Nam-Mân-Việt (Minnan – Phúc Kiến) phát âm cho từ ‘dùng’ (ăn) là [Eng].

Giôông = chồng. ‘Chồng’ mang phát âm giống tiếng Hạc-Việt [chong] tương đương với [trượng] trong ‘trượng phu’. Âm [Gi] trong [Giồông] tương đương ‘qua lại’ với [Ch] là một đặc điểm tiếng Mường {xem ‘Giường / chờng’ phía trên}.

Giôông = giông. Không ngoài việc cho biết lối phát âm phân biệt âm cuối [n] và [ng] chỉ là đặc điểm một phương ngữ chủ lực vùng kẻ Chợ của tiếng Việt. Rất có thể mang ảnh hưởng tiếng Mân Việt (nhà Trần). Tương tự: Hoọc = Học // Khôông = Không.

Hè = nhỉ. Không là một ngoại lệ đặc biệt. Từ đệm cuối câu thường thay đổi giữa các phương ngữ với nhau. Hè = hỉ = nhé = nhỉ = hả = chớ = chi = à = v.v. Tiếng Hoa có thể có trên 30 từ đệm khác nhau.

Lả = Lửa. Tiếng Mường (Hoà Bình) cho ‘lửa’ là ‘cúi’. ‘Ví phỏng trường’ [1] của ‘cúi’ (lửa) hoán chuyển sinh ra ‘cúi’ mang nghĩa ‘củi’ (cây dùng để đốt lửa) [30]. Một ‘chi phương ngữ’ Mường khác có thể phát âm ‘lửa’ như ‘lá’ hay ‘lả’, bởi các dấu ấn của âm tương đương [a] <=> [ưa] như sau: [Khã] (M) => ‘Sữa’ (milk) (V). Tha thỉa (M) => Rưa rứa. Rạ = Rựa {xem [18]}. Do đó, âm [A] (M) => [Ưa] (V) ==> Lả = lửa. {‘Lả’ => Lửa, mang ảnh hưởng tiếng Mường}.

Lịp = nón lá. Có ghi đầy đủ trong tự điển Huình Tịnh Của [14]: nón. Tiếng Hạc Việt (Hẹ) phát âm y hệt [lip] cho chữ 笠, tượng hình chữ ‘Trúc / tre’ (chỉ lá tre) viết chồng lên âm ‘lập’. Phát âm theo kiểu Quảng Đông của ‘lịp’ là [lap].

Ló = lúa. Tiếng Mường: Lõ = lúa. Lõ cảo = lúa gạo; lõ đếp = lúa nếp. Giữa Mường và Kinh, âm dấu sắc ưa biến chuyển qua lại với dấu hỏi. Nhưng trường hợp này cho thấy phân loại ‘hỏi / ngã’ trong tiếng Việt có vẻ rất nhân tạo. Thí dụ khác: chũng thôi (M) = chúng tôi; so với: chủng enh (M) = các anh.

Lọi = gãy (chân). Cũng là kiểu nói nhiều nơi khác. Tiếng Mường: lé= gẫy; lé chân= gẫy chân. Đây là một thứ âm sinh ra theo kiểu ‘cận vị’ – ‘lẻ (lé)’ và ‘loi’ ưa đứng gần - bởi tiếng Mường cũng như Việt đều có: lé loi (M) = lẻ loi (đơn chiếc) (V). Như vậy sẽ không có gì vượt đến ngoại lệ, khi ‘lé loi’ mang nghĩa ‘cô đơn’, ‘đơn chiếc’, trong tiếng Mường cũng sẽ mang nghĩa ‘gẫy’ (tay / chân) {lé // lọi}. Bởi tiếng Mường Hoà Bình không có dấu nặng cho nên tiếng (Kinh) Việt có thể sẽ biến ‘loi’ thành ‘lọi’ để phân biệt với ‘lẻ loi’, mặc dù cả hai trong tiếng Mường đều là [lé loi]. Âm giống nhất trực tiếp là [Lov] trong tiếng Hmong, với [v] chỉ thinh vừa vừa rồi cất lên, giống kiểu thinh ‘hỏi’ hay ‘ngã’, mang nghĩa ‘bẻ / gẫy’. Một từ ‘Nôm’ khác khá gần ‘Lọi’ chính là ‘lìa’ 裂 có phát âm quan-thoại [lie] và Nam Mân-Việt là [liat]. ‘Lìa’ ưa ‘cận vị’ với ‘gãy’: ‘gãy lìa’.

Mệ = bà. Ảnh hưởng ‘Thái-Việt’ (Mường): Mễ = mẹ, bà. Mễ dã= bà nội, mẹ chồng. Mễ mỗng= mẹ vợ. Mễ khà= mẹ già, u già, bà, cụ.

Mẹng = miệng. Tiếng Mường => ‘Mẽnh’, cho thấy ‘Mẹng / miệng / mẽnh / mồm’ là những lối phát âm khác nhau theo từng vùng, trước thời quấc-ngữ. ‘Mồm’ => mõm, với Mõm thường dùng cho súc vật: ‘mõm chó’.

Mi = mày. Cũng được dùng tại nhiều nơi ở Việt Nam, và cũng có ghi trong từ điển xưa [14]. (Xem thêm chi tiết ở [4]).

Mo nang = tàu cau. Có ghi trong từ điển Huình Tịnh Của [14]: Mo = cái cốt tàu cau // Mo nang= cái bao trắng gói lấy buồng cau, buồng cau nở ra thì nó phải rụng. Từ dùng để chỉ ‘Cau’ ở tiếng ChRu là [Pơ-Nang], tiếng Mã-Lay là [pin-nang]. Để ý [Pơ-nang] có âm đầu /P/ rất giống /M/ trong ‘Mo-nang’ bởi cả hai (/P/ và /M/) đều là âm môi-môi.

Mô = đâu. Cũng có ghi trong từ điển Paulus Của [14].

Mụ = bà. Có ghi trong từ điển Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 [3]. Tiếng Chăm: [Mu?] nghĩa ‘bà cụ’; [mu?]-[bôy] = bà mụ.

Mui = môi. Hoán chuyển bình thường giữa âm [u] và [ô], trước và sau thời quốc ngữ: [tui] = [tôi]; [thúi] = [thối]; [gong] Hoa => [cung] Việt; [kung fu] => [công phu]; [tùng] = [tòng], v.v.

Mụi = mũi. Hoán chuyển bình thường giữa hai thinh trầm. Thông thường qua lại giữa Mường và Việt. Thỉ ngiễm (M)=> thí nghiệm (V). Pò mũng (M)=> bò mộng.

Nác = nước. [Nác] hay [đác] là những phát âm chỉ ‘nước’ rất phổ biến trong các thứ phương ngữ xưa ở vùng Đông Dương, kể cả tiếng Mường. Từ điển Alexandre de Rhodes [3] ghi ‘Nác’ = ‘nước’. ‘Nác’ mang cùng gốc với [Naahm] tiếng Thái-Lào, và cũng rất có thể ‘Nác’ là kết quả hợp âm: [naahm] T + [dak] M-K. ‘Nác’, ở dạng ‘Đác’ trong các phương ngữ của Môn-Khmer, cũng có liện hệ ‘ví phỏng’ (xem [1]) với ‘đạc’ mang nghĩa ‘chất lỏng đã đặc lại’ => ‘đặc’ [3].

Ngái = xa. Một từ rất phổ biến khắp Trung-Hoa và các vùng đất Mon-Khmer: [xngai], [jngai], [yngai], [xă-ngai], v.v. thuộc Mon-Khmer và Munda. Tiếng Thái là [za] gần với ‘xa’ hơn. Âm [ngái] rất gần với âm [gai] quanthoại và [kai] tiếng Mân Việt (PK) và Hạc Việt (Hẹ), 垓, có mang một nghĩa: ‘Xa’. ‘Ngái’ cũng được ghi trong cả hai quyển từ điển của Alexandre De Rhodes [3] và Huình Tịnh Của [14].

Ni = này // Nớ = Kia. Các thứ tiếng đệm, thường có âm tương đương trong các phương ngữ Hoa. Tiếng Mường: ni = nì = nầy. Tiếng Việt: Nớ ~ Nọ.

Nôỗng = nương. Nổng = chỗ đất cao (Từ điển Lê Ngọc Trụ [23]).

Nương = vườn quanh nhà. Theo [23]: nương = ruộng cao ở núi. Dùng sát với ‘ruộng’, hay thay thế ‘ruộng’: ruộng nương, nương chè, nương dâu. ‘Nôỗng’ và ‘Nương’ rất gần âm với ‘nông’, và ý nghĩa, cách phát âm có thể hoán chuyển với nhau, trước thời quốc-ngữ. Cũng có khi đi đôi với ‘náu’ mang nghĩa: nương tựa, nhờ cậy. Trường hợp này, ‘nương’ gần âm tiếng Hạc (Hẹ): [niong] = nương tựa, và ‘náu’ gần âm tiếng Ngô-Việt: [Nyaz], hay Hạc: [liau].

O = cô. Có trong từ điển của Huình Tịnh Của [14]: Ông chú mụ o = ông chú bà cô. Ngoài ra ‘O’ => o bế = lấy lòng.

O mi; cụ mi; chú mi: Trong trường hợp này, ‘O’ được dùng như một từ đệm cho ‘đại từ’. Xem [4], ta thấy ‘O’ có thể dùng như một đại từ, mang nghĩa ‘tôi / tớ’ - xuất phát từ phương ngữ Quảng Đông. ‘O mi’ rất có khả năng dùng ‘o’ chêm vào ‘mi’ để thêm phần thân mật: ‘Mi của O’ - giống như kiểu ‘chú mầy’, ‘chú mi’.

Ót = gáy (sau cổ). Tiếng Chăm: [takôy] = cổ. Mon-Khmer: [ko] hay [ka] = cổ. Trong nhóm ngữ Mon-Khmer, cũng có rất nhiều thứ tiếng dùng từ mang âm và nghĩa lẫn lộn cho: đầu, óc, và cổ. Kata, Sedang: *[nqo], [ko], [nkoq]; Munda: [oq]; Bahnar, Pacoh: [kơl]; Mường (Khen): [kel]; Sengoi: [kelkeil]; Stieng: [ngun] [8], mang nghĩa: đầu, óc, sọ, cổ, và ‘gáy’ (Sengoi) lẫn lộn nhau. Tiếng Thái cho ‘cổ’ và ‘cổ họng’ là [khaaw], rất gần ‘cổ’. Tiếng Tàu cho ‘cổ’ hay ‘gáy’ là 項 phát âm [hong] theo Hạc và Quảng Đông, khá giống ‘họng’ tiếng Việt. Phát âm Ngô-Việt cho từ này là [hAz] khá gần với ‘ót’. Trong khi phát âm Hán-Nhật là [kou] => cổ. Tự vị Huình Tịnh Của [14] cũng có ghi: Ót= phía sau cổ, ở tại chớn tóc. Từ điển Alexandre de Rhodes [3] lại có ghi: Gấy, sau gấy: Tăóc gấy = Tóc gáy. Bối tăóc sau gấy => búi tóc (cho gọn) ở sau gáy.

Ôông = Ông. Cũng không đặc biệt phương ngữ Quảng Trị. Tiếng Việt thời quốc ngữ chưa hoàn chỉnh, vẫn có lộn xộn ở âm cuối [ôn] và [ông]. Thí dụ: ‘tôn giáo’ trước giữa thế kỷ 20, vẫn còn phát âm tại rất nhiều nơi: ‘tông giáo’ (xin xem quyển ‘Nho Giáo’ của Trần Trọng Kim – đã dùng ‘tông giáo’ từ đầu đến cuối). Rất có thể những nhà cải biến quốc ngữ đã đổi ‘tông’ thành ‘tôn’ bởi âm ‘tôn’ gần với ‘tin’ trong ‘tín ngưỡng’, và ‘cận vị’ với ‘tôn kính’, ‘tôn thờ’ hơn.
(Còn tiếp)

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2008

Thử Xem Qua Một Số Từ Vựng Quảng Trị

Mô hình được dùng để giải mã truyền thuyết Hùng Vương [2] đã dựa vào một quan sát rất thông thường và thực tiễn: “Hai cây đứng cạnh bên nhau trong một khu vườn có thể do những chất bổ dưỡng giống nhau, nhưng phân lượng tức số phần trăm của từng chất một do rễ cây thu hút từ lòng đất hoàn toàn và luôn luôn khác nhau”. Giống như tiếng nói của hai hoặc nhiều dân tộc láng giềng, theo sắp xếp địa lý, có một số từ vựng và cấu trúc giống nhau, và một phần lớn hơn lại khác nhau. Nhưng rất có thể không có vấn đề vay mượn, nhất là trong một quá khứ xa xưa. Chỉ có đóng góp khác nhau của mỗi thành phần sắc tộc đóng góp, tại mỗi quốc gia láng giềng với nhau. Mô hình này được gọi mô hình theo kiểu ‘Cây-và-Đất’, để phân biệt với thứ mô-hình tạm gọi ‘Cây-và-Cành’ thường xuyên được xử dụng từ trước đến nay, nhất là trong nghiên cứu ngữ học.

Hệ luận chính của lý thuyết dựa trên mô hình ‘Cây-và-Đất’ cho rằng tiếng Việt là một hỗn hợp lâu dài của các thứ tiếng thuộc nhiều tộc người khác nhau, với hạ tầng cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ (thành phần chủ lực của tiếng Mường) cộng với khối Đa-Đảo. Chồng chất và đan xen với lớp hạ tầng cơ bản đó là các thứ tiếng xuất phát từ khối Bách Việt xưa ở miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt) trải qua Quảng Tây, Quảng Đông (Tây và Đông Việt) cho đến tận Chiết Giang (Ngô-Việt), Phúc Kiến - Triều Châu (Mân Việt), và Hải Nam, v.v. Và hỗ trợ bằng hai nhóm từ miền cực Bắc nước Tàu, thời Xuân Thu thường gọi khối Đông Di tập trung ở khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay. Đó là hai nhóm khi xưa ưa sống gần gũi nhau: Hẹ (Hakka, tức Hạc Việt) và Miêu-Dao (Miao-Yao hay Hmong-Mien).

Hệ luận quan trọng khác chính là thứ tiếng mà người Việt thường gọi ‘tiếng Hán Việt’, không phải do tiền nhân vay mượn từ những quan quân đô hộ, mà do chính những người Việt cổ thuộc khối Bách Việt xa xưa (kể luôn cả Hạc Việt và những nhóm tương cận), đem sang xứ An-Nam hoà trộn với các thứ tiếng Việt bản địa. Gần như tất cả những âm Hán Việt quen thuộc, kể cả vô số các âm ‘thuần Nôm’, như ‘chúng ta’, ‘tớ’ {xem [4]}, đều có thể truy về các âm thuộc khối Bách Việt xa xưa, mà hậu duệ của họ hãy còn xử dụng ở bên Tàu cho đến ngày nay.

Bài viết này, do đó, sẽ dùng một số từ được xem đặc thù Quảng Trị, gần đây xuất hiện trong một bài báo của Trần Hữu Thuần [18], theo thông tin từ những email của Trần Vĩnh Tường và Nguyễn Quốc Lập, đăng trên báo mạng Talawas, để tiếp tục đưa ra các dẫn chứng hỗ trợ cho lí thuyết về nguồn gốc tiếng Việt ở trên.

Xin được trình bày ‘tầm nguyên’ của từng từ một theo thứ tự bài viết của Trần Hữu Thuần [18].

Áo lá: ‘áo’ là một từ mang gốc Mon-Khmer [?aav], trong đó [?] {hay [’]} thường gọi ‘tắc âm màng họng’, phát lên giữa [uh] và [oh] khi đọc nhanh [uh-oh]. Tiếng Đa Đảo ở Tahiti gọi ‘áo’ là [?ahu’o’omo] và Samoa: [?ofutino], mang âm đầu rất giống ‘áo’. ‘Lá’ là một từ mang gốc Thái [laa] mang nghĩa ‘nhỏ’. Ngày trước, thứ áo lót ‘mai-dô’ cũng được gọi nôm na: ‘áo thun lá’.

Bạo: ‘Bão’ biến chuyển qua lại với ‘Bạo’, cho thấy sự ma-xát giữa các phần-ngữ khác nhau trên vùng đất Việt. Tiếng Việt ở hạ tầng cơ bản, theo lý thuyết ‘Cây-và-Đất’ [1] [2], chính là tiếng Môn-Khmer pha lẫn với tiếng Thái-cổ và Đa Đảo. Một số các ngôn-ngữ liên-quan đến tiếng Môn, như tiếng Chàm ‘chính thức’, tiếng Myanmar, mang 4 thanh điệu (thinh). Tiếng Mon-Khmer cũng như Munda, đặc biệt nhất là Khmer, không có thinh (nhưng có nhấn mạnh như tiếng Anh), hiện còn phản ánh qua tiếng Hải Nam, tiếng Mã Lai, các tiếng Đa Đảo, v.v. Trong khi các thứ tiếng Thái, Tày-Nùng, Mường, Nam bộ, chỉ mang 5 thinh. Biến chuyển qua lại giữa thinh-ngã (Bão) và thinh-nặng (Bạo), cả hai đều thuộc thinh-trầm, cũng là tiêu biểu của tiếng Mường, bởi tiếng Mường (Hoà Bình) không có thinh-dấu-nặng: mũ khà => mụ già (V). ngẽn ngùi => nghẹn ngùi (ngào) (V). pũi => bụi (V).

B’lăng = cùng gốc với tiếng Mã Lai (phần đóng góp: hệ Môn-Khmer): ‘Bulan’. Tiếng Giarai: ‘Blăng’. Tiếng Mường ngày nay: ‘Tlăng’. Từ điển Alexandre de Rhodes [3] ghi hai âm ‘Trăng’ và ‘Trời’, tuần tự, là [Blăng] và [Blời], trong khi ‘Tròn’ (round) lại giống Mường: [Tlòn]. Khác với các lý giải có sẵn từ trước đến nay, chúng tôi không cho rằng tiếng Việt biến chuyển từ ‘Blăng’ qua ‘Tlăng’ rồi đến ‘Trăng’, mà thật ra đó là ba kiểu phát âm có sẵn thuộc ít nhất ba phương ngữ khác nhau trong lòng tiếng Việt cổ. Phát triển quốc-ngữ chính là tác động thống nhất chọn lọc ra ‘Trăng’, khởi sự khoảng đầu thế kỷ 19.

B’lời = Cũng như ‘Blăng’, ký âm theo Nôm của chữ ‘Trời’ thường bao gồm âm [B] qua chữ ‘Ba’ 巴, cho thấy âm ‘nôm-na’ của người khu vực Kẻ Chợ (Kinh) [5] dành cho chữ ‘Trời’ chính là [Blời]. Một trong những lối viết ‘ráp vần’ Nôm của ‘Trời’ là chồng chữ 巴 ‘Ba’ trên chữ 利 ‘Lợi’ [6] => Blợi => Blời.

Bọ = Cha, hay Tía, đều có những từ phát âm tương tự trong các phương ngữ tiếng Hoa, hoặc tiếng Thái: [Po], [Cha] và [Tía]. [Bọ] cũng liên hệ đến [Bố] và [Bu]. Riêng [Bu] cũng chuyển qua lại để chỉ người ‘Mẹ’, hoặc người Vợ. Đặc biệt âm [P] (trong [Po] hay ‘Bọ’) trong nhiều thứ tiếng ở Hoa Nam và Đông Nam Á, thật ra là một thứ âm nằm giữa âm [P] và [B] theo mẫu tự La-tinh. Ký âm quốc-ngữ đã chọn ‘B’ cho một số từ, thí dụ: Po (M) => Bọ (V); Pà đỡ té (M) => Bà đỡ đẻ (V), Pẻnh mỳ (M) => Bánh mì (V). Và âm ‘P’ không được theo sau ngay một nguyên âm (‘pên Tàu’ => ‘pên’ Tàu => bên Tàu), mà phải kèm theo âm hơi thở ‘h’: Phấy (M) => Phẩy (dấu [,]); Phế thái => phế thải (V). Tức các tôn sư quốc ngữ đã đặt ra quy lệ, không dùng âm ‘P’ với một nguyên âm theo sau: Pung => Pung => Bụng.

Ca = Gà, một thứ từ có nhiều phát âm rất giống với từ tương đương ở các phương ngữ Hoa Nam, nhất là Hakka và Hải Nam [Gai]. Thái cũng phát âm tương tự: [Gai] hay [Gaa]. Quảng Đông phát âm như [Cáy], rất giống tiếng Mường: [Ca].

Cẳng = Chân. Thêm một từ nữa: ‘Giò’. ‘Chân’ mang cùng gốc với [jəəng] hay [dzâng], [ajưng] hoặc [chơn] của các phương ngữ thuộc Mon-Khmer, Munda [8] hay Mường. [Cẳng] bà con với [Ka] tiếng Hakka (Hẹ), [Ka-tui] Phúc Kiến, [taKay] tiếng Chăm, hoặc [Kaki] tiếng Mã Lay, và giống nhất với [Kahng] tiếng Tây Tạng. Trong khi ‘Giò’ có thể cùng gốc gác với [zeoi] tiếng Quảng Đông, [giok] Hẹ (Hakka), hay [chiok] Phúc Kiến (Minnan) [9].

Cấu = Gạo: Gần như tất cả các từ liên hệ đến ‘lúa gạo’ đều mang gốc chủng Việt (chi Thái tức Âu), nếu viết tiếng Tàu, viết theo bộ Mễ (xem [2]). ‘Cấu’ (cũng có thể: ‘Cẩu’) có bà con gần với [Cảo] tiếng Mường, [Khẩu] tiếng Tày-Nùng, và [Khao] hay [Gaow] tiếng Thái. Để ý biến chuyển ‘song hành’ giữa tiếng Thái và Việt: ‘Cơm’ [Gaow] mang một lượt hai nghĩa: Cơm (gạo) {cảo chăm: gạo tẻ}, và Bữa ăn {Anh ăn cơm chưa?}.

Cẩy = Vợ. Chữ ‘Vợ’ có thể mang hai gốc khác nhau tùy theo địa phương. Phát âm theo phía Nam [Byợ] rất gần với các âm bắt đầu bằng [B] như [Bu] hay [Bọ]. Phát âm theo kiểu ‘V’ của phía Bắc thì gần sát với [vo] tiếng Hakka mang nghĩa ‘người hầu thiếp’, hay [vuk] (cũng Hakka), tương đương với [wu] quan-thoại mang nghĩa ‘nhà’ (ốc) hay ‘thất’ {thành gia thất, chánh thất (vợ cả)}. ‘Cẩy’ [11] trong khi đó có âm tương ứng trong tiếng Mường là [Cải] hay [Cảy], mang nghĩa ‘Mẹ’ hay ‘Vợ’: Cải con= vợ con, cảy quả= mẹ goá, cảy té= mẹ đẻ.

Cẩy = Cái // con Gái. Âm cuối [y] trong [Cẩy] mang ảnh hưởng khối Mon-Khmer. Tiếng Việt trong trường hợp này đã chọn [i], thành ra [Cái]. Trong tiếng Mường, [Cẩy] {cải / cảy} có thể mang nghĩa ‘cái / con’ (cải pẻnh, cái đốc => cái bánh, cái đò; cảy cả => con cá; cảy ca => con gà), và cũng đồng thời có thể dùng để chỉ: mẹ, vợ, con gái, chị, người đàn bà. Thí dụ: cảy ho = mẹ tôi; con cải = con gái; cải cá = chị cả; cái khà = gái già; cải khon = gái tân; cải roch = chị ruột).

Chạc giợ = dây chỉ / dây nhợ. Âm đầu [Ch] tiếng Mường thường khi tương đương với âm [gi] hay [d] {[y]} phát âm theo phía Bắc hay Hakka là {[dz]}. Thí dụ: chiểng (M) => giếng (V); chiềng (M) => giường (V). Trong khi đó, âm [y] của chủng Thái-cổ hay đa số các phương ngữ tiếng Tàu kể cả Quan-thoại, rất thường tương đương với âm Việt [Nh]. Thí dụ: [ya] => ‘Nha’ (răng –> nha sĩ) [10]. Ở thế kỷ 17, những khu vực Alexandre de Rhodes đi qua và tiếp cận trước khi soạn quyển từ điển tiếng An-nam đầu tiên [3] là những vùng không mang ảnh hưởng Hakka, tức dùng âm [D] như [Y] kiểu Nam bộ, qua dấu ấn [d] => [nh] {xem [3]}: dè dẹ=> nhè nhẹ, dán => nhắn, dả ra => nhả ra; dắc cha mẹ => nhắc cha mẹ; dịn => nhịn (dung thứ [3]). Khi quốc ngữ được xử dụng mãnh liệt vào giữa thế kỷ 19 ở Nam bộ, âm [D] đứng ra thay thế cho cả hai thứ [Y] quan-thoại và [Z] Hakka. Từ đó âm [Nh] xuất thân từ [D] trở lại biến chuyển với [Z] tức [Dz] hay [Gi]. Từ điển Mường [7] có ghi: Chac nhỡ =>dây chỉ {chạc nhợ}=>giây nhợ=> chạc giợ. Để ý, trong tiếng Mường (Hoà Bình), không có dấu nặng [7]: Chac => chạc (V).

Chắc = nhau. Không chắc chắn như vậy. Bởi ‘chắc’ là một từ mang gốc Mon-Khmer và Mường mang nghĩa: thân mình, con người, thân thể, v.v. Trong lối dùng ‘đập chắc’, ta có thể thay thế nó bằng ‘đánh nhau’, nhưng [chắc] chắc không nhất thiết mang nghĩa gốc là ‘nhau’. ‘Đập chắc’ là một lối nói của một số phương ngữ Trung bộ, tương đương với ‘đánh nhau’ phía Bắc, hoặc ‘quýnh lộn’ phía Nam [12]. Tiếng Mường: chắc = người (V), chắc cá = người lớn, chắc khà = người già. Tiếng Mon-Khmer: [tsa?ak] hay [sa?ak] = thân mình.

Chi = gì / sao. Rất phổ quát tại nhiều nơi. Tiếng Mường: cải chi => cái gì.
Chiếng = giếng. Âm [ch] tiếng Mường, nhiều khi tương đương với [g] tiếng Việt. Khảng

Chiêng => tháng Giêng. Chiềng bễnh => giường bệnh. Chiểng = giếng. Chú ý: hai âm bổng [ẻ] (dấu hỏi) và [é] (dấu sắc), ưa biến chuyển qua lại trong tiếng Mường, một thứ tiếng không có kí âm theo a-b-c cho mãi đến sau này.

Choọc = Thọc. Tiếng Việt trước khi quốc ngữ ra đời đại khái có những ‘pha ngữ’ lộn xộn như kiểu ‘Choọc <=> Thọc’. ‘Choọc’ là âm đứng giữa ‘chọc’ và ‘chọt’, tức nhấn mạnh việc không phân biệt âm cuối [c] hay [t], như kiểu Nam bộ. ‘Thọc’ và ‘chọc’ lúc đầu có thể chia sẻ một số ý nghĩa chung, nhưng dần dà tách ra hai cách dùng khác nhau. Điển hình: chọc = tease (trêu chọc / chọc ghẹo); thọc = poke (thọc gậy). Tiếng Mường cũng có ‘chọc’, nhưng không có dấu nặng: [choc]. Việc nhầm lẫn ‘chọc’ với ‘thọc’ có lẽ bắt nguồn từ hai cách phát âm khác nhau của cùng 1 từ Bách Việt: 戳 [tsok] (~ choc) theo kiểu Hẹ / Quảng Đông, và [tshokk] (~ thoc) theo Ngô Việt (Chiết Giang) [9].

Chộ = thấy. Rất có khả năng mang cùng gốc với các từ Thái: [chohm], [jaawng]. Hay [sioki] tiếng Tonga, hoặc [ýô?k] tiếng Chăm. Đặc biệt ‘Chộ’ mang phát âm rất gần với Hạc Việt (tức Hẹ hay Hakka) [chuk] hay [chon], Mân Việt (Phúc Kiến) [chhu], Ngô Việt [tshO], và Hán-Hàn [chok] - viết theo Hán tự: 矚 và 穿.

Chồông = chồng (chất). Cũng có bà con với tiếng Tàu. Hakka đọc [zong] viết khác với quanthoại [chong]-2. Việc thiếu phân biệt âm cuối [an] và [ang] cũng được phản ánh qua khá nhiều phương ngữ Trung Hoa. Thí dụ: Lý An (đạo diễn) => Ang Lee. Lý QuanG Diệu => Lee Kwan Yew. Tinh (sao) => sing (Q. Đ) => chheN (Mân Việt – Phúc Kiến). Thí dụ thêm về thiếu phân biệt âm cuối [c] và [t] ở tiếng Mường: Roch (M) => ruột. Wớch (M) => vớt. Có vẻ việc du nhập phân biệt các âm cuối [t] và [c], [n] và [ng] trong tiếng Việt, khởi xuất từ phương ngữ Mân Việt của khối người hậu thuẫn, hay thuộc thị tộc, nhà Trần.

Chờng = giường. ‘Chờng’ ó ‘chiềng’. ‘Ờ’ hay ‘Iề’ đều là những kí âm ‘gần đúng’ của quốc ngữ, đối với hằng trăm phát âm khác nhau tùy từng làng hay mường bản của thời ‘tiền-quốc-ngữ’. Chiềng bễnh => giường bệnh.

Chu = châu. Đây là một trong những phát hiện đặc biệt của loạt bài Hùng Vương [2]. Ngày trước chúng ta thường nhầm rằng ‘Chu => Châu’ do ở việc kị húy Chúa Nguyễn Phúc Chu. Sự thật không phải vậy. Nó nằm trong định luật về âm tương đương giữa các phương ngữ Bách Việt (xưa) ở Hoa Nam, [Iu] ó [Âu]: ‘Nếu một phương ngữ có phát âm [au] hay [ou] cho một từ, thế nào cũng có một phương ngữ khác phát âm cho cùng từ đó theo âm [iu]’. Thí dụ: tài tử Andy Lau (‘Lau’ đọc theo Hongkong) theo tiếng quan thoại sẽ là Andy Liu {Lau Tak Wa = Liu De Hua = Lưu Đức Hoa}. Âm [ưu] quốc ngữ chính là một thứ âm ‘du di’ nằm giữa [au] và [iu] {[Lưu] giữa [Lau] và [Liu]}. Người Hẹ thiên về [iu]: Đông Châu [dong zhou] họ sẽ đọc như [Dong Chiu]. Lâu ngày sẽ ra khuynh hướng dẹp bớt âm [i] ở giữa, thành ra [Dong Zhu] => Đông Chu. Muà Thu tiếng Tàu đọc [qiu]. Nhưng Quảng Đông đọc [tsau]. Hakka sẽ thu gọn [qiu] thành ra [qu] => Thu. Tuy nhiên hai họ [Zhou] (Châu) 周 và [Zhu] (Chu) 朱 là hai họ hoàn toàn khác nhau trong tiếng Tàu: Chu Nguyên Chương / Chu Dung Cơ – mang họ khác với - Châu Ân Lai / Châu Nhuận Phát / Châu Chỉ Nhược. Tiếng Việt không phân biệt khác nhau giữa hai họ, và thường lầm tưởng khác nhau giữa phát âm Bắc và Nam. Người Rapanui và Maori gọi gió hiu-hiu (breeze) là [hauhau]. ‘Hiu-hiu’ ó ‘hauhau’ cho thấy tổ tiên của họ, rất có khả năng, đã từng có mặt ở Việt Nam và Nam Trung Hoa.

Cộ = củ (khoai). Lại một hoán chuyển giữa các thinh (dấu). Từ điển Mường [7] ghi: cố = củ: Nhúc ca mà kho pỡi cố cỏng điênh ăn lắm / Thịt gà mà kho với củ gừng thì ngon lắm. Cổ = cố, cụ: Pà cổ tôi ta hảo ản môch tlăm thuối / Bà cố tôi gần được một trăm tuổi rồi.

Côi = trên. Tiếng Mường: cổi = trên. Cổi tlời = trên trời, cõi trời; cổi nủi = trên núi. Có thể cùng gốc với Phúc Kiến [kaoiN] nghĩa ‘cao / phía trên’.

Cơn = con + cái. Trước hết, ‘cơn’ => [con] chỉ là một lối kí âm thống nhất của quốc ngữ: [con]. Nhưng theo định luật thông thường của ‘mạo từ’ [12], ‘con’ thường dính với các từ mang tính ‘động-đậy’: con sông, con chó, con gà, con gái, con chim, … và ‘cái’ thường đi với những từ mang tính ‘bất động’: cái bàn, cái ghế, cái hồ, cái đồn, …. ‘Cái’ cũng thường dùng cho những gì trừu tượng: cái lời khuyên, cái tinh thần chậm tiến. Thế nhưng, có một số ngoại lệ có thể giải thích được, một số khác lại không. Thí dụ: mặt trời thường mang ‘giống bất động’: cái mặt trời hôm nay sao nóng thế, cái ông trời thật bất công (giống như: cái thằng cha đó dê thật); nhưng mặt trăng lại dùng với ‘con’ (động đậy): Đầu con trăng = đầu tháng {xem [14]}; Con trăng nay đã tròn (giống như: con mẹ đó lém lắm, con {cơn} nước ròng). Mặt trăng mang giống ‘động đậy’ {‘Con’} [14], có thể giải thích bằng: (a) trăng có dấu chuyển động, khi khuyết khi tròn; (b) trăng liên hệ đến chuyển động thủy triều lên xuống; (c) có thể những nhà thiên văn cổ thời đã biết mặt trăng vận chuyển quanh trái đất trong một tháng. Phân loại ‘cái’ cho ‘trời’ và ‘con’ cho ‘trăng’ hoàn toàn phù hợp với phân loại của tộc Mon-Khmer, chứ không như kiểu người dân tộc Anishinaabemowin (da đỏ) ở Canada [15]. Thế tại sao tiếng Việt lại dùng ‘con dao’ và ‘cái rựa’? Muốn tìm lí giải hợp lý cho câu hỏi này có lẽ ta phải dựa vào ‘luật trung bình’ của toán học. Theo đó những bộ phận cơ thể có phát ra chất lỏng, chất khí (hơi thở) {như lỗ mũi} [15] - hay theo bình quân tương đối có ‘động đậy’ (như bộ phận sinh dục đàn ông) – sẽ mang giống ‘động đậy’ (tạm gọi: giống ‘chổng’), những bộ phận khác sẽ theo giống ‘bất động’. Ngoài ra ‘con dao’ phần lớn cấu tạo do kim loại, lấy từ các quặng mỏ, một thứ ‘đá’ mang cùng giống ‘chổng’ như ‘trăng’ {theo hệ Mon-Khmer} => Con => Con dao. Trái lại, mặc dù ưa đứng chung với ‘Đực’ {đực rựa – xem [16]}, ‘rựa’ phải dùng ‘mạo từ bất động’ là ‘Cái’, bởi chứa phần lớn là gỗ, ở cái cán dài, ít ra trong kiểu dáng ban đầu xa xưa. ‘Gỗ’ (giống như ‘cây’) mang giống ‘cái’, bất động. Giống như ta nói ‘cái cuốc’ bởi cuốc cũng có cái cán bằng gỗ thật dài. Thật ra điểm cần nhấn mạnh ở đây không phải ở chuyện ‘cái / con’ nhưng ở chỗ trong tiếng Mường phân biệt mạo từ ‘cái’ và ‘con’ thường bị nhầm lẫn (lộn xộn) hơn tiếng Việt rất nhiều. Thí dụ: cảy = cái => cảy tlời (trời), cảy tlăng (trăng), cảy khảng (tháng), cảy khảng (trăng), cảy ca (gà),…. Con = con => con ca (gà), con ngươi (ngươi), con thay (ngón tay), con ma Chỡ (ma người Kinh), con ta (cây đa),… Theo thiển ý, điểm lộn xộn này trong tiếng Mường đã cho thấy phân loại giống trong mạo từ ‘con / cái’ không xuất phát từ tộc Thái cổ (tộc Âu-Việt ảnh hưởng chủ lực đến người Mường), mà chính ra khởi nguồn từ tộc Việt-cổ khác cũng thuộc bản địa: Môn-Khmer. Người (Kinh) Việt xử dụng ‘cái / con’ nhuần nhuyễn hơn, và theo sát tộc Việt bản địa: Mon-Khmer.


(Còn tiếp)

Thứ Năm, 6 tháng 3, 2008

Qua Truông Nhà Hồ

Để đưọc gọi là người Quảng Trị, xét ra tôi không thuộc diện nào cả. Đang tính quẩy gánh qua Truông nhà Hồ để vào Quảng Trị tá túc lâu dài, bỗng dưng nửa đàng rớt thúng. Bạn thử nghĩ có ai quẩy gánh mà chỉ có một đầu ? Thành ra nói về Quảng Trị, tôi là kẻ đứng bên lề. Nghe nhiều hơn biết. Nếu người Quảng Trị có những điểm nổi bật, theo tôi nghe, thì khẩu lệnh sau đây trở thành như bất biến. Ấy là: ‘’Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe’’.

Đặc tính nầy xét ra rất chí lý đối với một tập thể vốn không phải là cư dân cố cựu trên vùng đất phiá Nam dãy Hoành Sơn (Đèo Ngang). Cũng như Quảng Bình, người Quảng Trị có nguồn gốc lâu đời ở miền Bắc Việt Nam, nghĩa là từ phía Bắc đèo Ngang trở ra tới biên giới Trung Hoa. Có lẽ đã có nhiều cuộc di dân về miền Nam. Nhưng khi hai châu Ô, Lý (cũng gọi là Rí) của Chiêm Thành chính thức trở thành hai châu Hóa, Thuận của Đại Việt sau cuộc tình đổi chác giữa công chúa Huyền Trân với Chiêm Vương Chế Mân vào năm 1306, thì đã có nhiều tộc hệ đến lập cư trên vùng đất mới. Họ khác nhau về tộc hệ, nhưng có chung một mẫu số là Đại Việt. Hơn thế nữa, họ có chung một lý tưởng là tạo cơ nghiệp trên vùng đất mới, đảm nhận vai trò xung yếu: Tiến Công, Phát Triển và Ổn Định trong sứ mệnh lịch sử Nam Tiến của dân tộc. Mỗi tộc hệ là những đơn vị cư dân. Chính họ phải chứng tỏ khả năng tiêu biểu của mình trong cộng đồng xã hội mới. Tính tự trọng được coi như mẫu mực, làm nền tảng cho nấc thang gía trị. Phân biệt chân giả cũng do đó mà phát sinh. Không cá nhân nào có thể nói thay cho tộc hệ của mình nếu không phải là vị tộc trưởng được cả tộc tôn kính và tín nhiệm. Câu nói ‘’Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe’’, tôi nghĩ có lẽ đã ra đời trong một hoàn cảnh như vậy.

Bạn có thể nhận ra trong việc bố trí cư dân dựa trên tộc hệ ở Quảng Trị. Có lẽ không có nơi nào khác, tên mỗi tộc hệ đã dược dùng nhiều để đặt thành địa danh như ở Quảng Trị. Là người địa phương, chắc chắn bạn sẽ kể ra hàng chục địa danh bắt đầu bằng tên họ (last name) cọng thêm chữ Xá. Xá là Nhà. Chẳng hạn như: Mai Xá, Ngô Xá, Hoàng Xá, Dương Xá, Võ Xá...Điều đáng nói là mỗi Xá như vậy phải có cái gì để tự hào. Tất nhiên phải là cái Biết có giá trị. Nếu chưa Biết thì phải dựa cột Xá mà nghe vị tộc trưởng dạy dỗ, bảo ban. Xét ra không đơn giản. Cái khó của người Quảng Trị nằm ở chỗ đó. Nhưng là một cái khó làm nên nét tự hào đặc biệt.

Hạ Cờ và Chấp Lễ, mỗi làng nằm hai bên lằn ranh Quảng Bình và Quảng Trị. Hai địa danh nầy hình như có chung một câu chuyện truyền khẩu lịch sử liên quan đến một vị vua triều Nguyễn ngự giá đi thăm dân cho biết sự tìn. Chỗ dân mang đặc sản tiến lên vua và đuợc nhà vua chấp nhận, sau được gọi tên là Chấp Lễ. Chỗ nhà vua và đoàn xa giá dừng chân nghỉ lại, sau gọi là Hạ Kỳ. Dân dã kêu là Hạ Cờ.

Nếu bạn không phải là người Chấp Lễ thì đừng nên giả giọng Quảng Trị. Tiếng nói Quảng Trị coi vậy mà rất khó bắt chước. Người Phủ Cam giả giọng Quảng Trị sẽ lòi ra cái đuôi Huế, trong khi họ có thể nói tiếng Quảng Nôm như người Quảng Nam. Nói tiếng Sàigòn như người Bến Nghé. Câu‘’chửi cha không bằng pha giọng’’cũng được nguời Quảng Trị sửa lưng thiên hạ nhiều lần. Lý do là bạn gỉa giọng không đúng. Ra chợ Gio Linh, bạn hỏi mua trái khổ qua, thấy trong rỗ của một bà ngồi cạnh hàng rau giữa chợ, nhưng không ai biết bạn nói cái gì. Mướp đắng là tên gọi bình dân ai cũng biết.

Bạn phải tinh tế để thấy cái triết lý bình dân nơi những câu nói vè ở Quảng Trị.

Khoai to vôồng thì tốt cộ,
Đậu ba lá thì bưa un,
Gà mất mạ thì lâu khun
Trai muốn gái thì thậm khổ
Gái muốn trai thì thậm khổ
Trời sinh voi thì sinh cỏ
Trời sinh sông thì sinh đò
Trời sinh giếng thì sinh mo
Trời sinh o thì sinh tui
Tui một mình không đặng
O một mình không đặng
Gíó ngoài biển hắn cuốn vô
Mây trên trời hắn cuốn lại
O với tui cùng cuốn lại
Tui với o cùng cuốn lại
Hai đứa mình cùng cuốn lại.

Người ta nói giọng Quảng Trị nặng. Tôi nghĩ cái nặng ấy có lý do chính đáng của nó. Điểm nặng bao giờ cũng ở trung tâm (Center of Gravity). Và hình như cái gì càng xuôi về phía Nam (Đèo Ngang) thì rất khác với cái gì đang có ở phiá Bắc. Đó là sức ép. Nếu không có sức ép ấy thì châu Ô, Châu Lý vẫn mãi mãi là của Chiêm Thành. Thiếu một sức ép bền bỉ thì vùng đất từ Hoành Sơn vào tới mũi Cà Mâu ngày nay vẫn mãi mãi là của Lâm Ấp, Chiêm Thành, Thủy Chân Lạp.

Nói như vậy, không có nghĩa là tổ tiên chúng ta qúa hiếu chiến. Đã có lúc, tổ tiên chúng ta chọn Ái Tử là chỗ dừng chân để an cư lập nghiệp trên vùng đất vốn là qùa cưới của vua Chiêm dâng lên nhà Trần. Những địa danh bắt đầu bằng chữ An có rất nhiều ở Quảng Trị, bên cạnh những địa danh sót lại của người bản xứ Chiêm Thành như Cùa, Trấm, Sòng, Sãi nói lên một ý nghĩa lịch sử khá lý thú trong chủ trương cùng sinh tồn của tiền nhân chúng ta. Khi nói về An Cư, An Lộng, An Thái, An Lợi, An Toàn...tự nhiên bạn có một ý niệm hòa bình nơi người dân Quảng Trị. Đáng ra, phía nam Quảng Bình, phải là Quảng An. Nhưng Trị cũng có nghĩa là giữ gìn sự yên ổn. Chưa ai nói lên cái ý nghĩa tiềm tàng nơi những địa danh như vậy…

(…)

Hãy trở lại với từng mãnh đất thân yêu của Quảng Trị chúng ta. Tôi có nhắc bạn về mấy địa danh độc chiếc ở Quảng Trị đó là Trấm, Cùa, Sòng, Sãi...Cũng vậy, ở Thừa Thiên, bạn thấy có Sịa, Sình, Sam, Truồi, Trẹm, Huế...Chắc bạn đã thấy hai tác gỉa Nguyễn Châu và Đoàn Văn Thông, khi thực hiện cuốn Ngàn Năm Xứ Huế (Thương Huế xuất bản, năm 1993) trong Chương Điạ Danh Huế, từ trang 139 đến 156, đã dùng các tài liệu của các giáo sĩ truyền giáo (1653), các nhà thương buôn Tây phương (1823) và cả tài liệu của Phan Khoang trong Việt Sử Xứ Đàng Trong (1967) để đi đến một khẳng định rằng Huế do Hóa (trong Thuận Hóa) mà viết trại ra. Rõ ràng hơn, hai tác gỉa nói ở trang 156 : Huế xuất xứ từ chữ Hóa.

Đây là một vấn đề địa lý văn hóa có liên quan đến Quảng Trị, đặc biệt là chợ Sãi ở gần làng Cổ Thành, Quảng Trị.

Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) có lẽ là người đầu tiên nhắc đến địa danh Huế. Trong bài văn nôm có nhan đề là Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, nhà vua đã viết: ‘Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bị hồ tiêu. Thao Lào, thóc Huế, Thuyền tám tầm chở đã vạy then’’. (Thơ văn Lê Thánh Tông, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nhà xb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội,1981, tr 134). [Thao là một sản phẩm dệt từ tơ tằm; Tầm là đơn vị do chiều dài khoảng 3 mét; vạy then là làm cong cái chốt của khoang thuyền do chở qúa nặng. CT của người viết ].

Với 38 năm làm vua, Lê Thánh Tông (trị vì từ 1460-1497) đã có lần đến Hóa châu, Thuận Châu, Quảng Nam và một lần vào tận Phú Yên.

Cũng nên biết rằng, trước khi Nguyễn Hoàng vào giữ chức trấn thủ Thuận Hóa năm Mậu Ngọ, 1558, thì vùng đất nầy đã được tổ chức cai trị theo chế độ chính trị của nhà Trần từ năm 1307. Quan ngự sử Đoàn Nhữ Hài đã thừa lệnh vua Trần Anh Tông (1293-1314) đặt các quan lại để củng cố an ninh vùng Ô châu ác địa, không phải ác vì đất hiểm cho bằng vì phải đối phó thường xuyên với người Chiêm lúc nào cũng tìm cách giành lại vùng đất đã mất. Châu Hóa, châu Thuận xưa, nay là đất Triệu Phong, Hải Lăng thuộc tỉnh Quảng Trị, đất các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên.

Cũng vậy, vào năm 1554, đang khi phân tranh với Lê-Trịnh và nội bộ nhà Mạc còn xâu xé, vì Phạm Tử Nghi muốn tôn Mạc Chính Trung lên ngôi, vua Mạc là Mạc Phúc Nguyên (1546-1561) vẫn cử Phạm Khắc Khoan vào làm Tham tướng dinh Thuận Hóa. Theo Ô Châu Cận Lục của quan Thượng thư Dương Văn An (nhuận sắc và xuất bản năm Ất mão,1555) thì Triệu Phong non sông kỳ tú, ruộng đất mở mang, dân cư đông đúc, thực là nơi đô hội lớn của một phương. Cảnh tượng tươi vui, phong vật qúi giá không còn đâu hơn nữa.

Đàng khác, một bản văn nôm vừa mới được phát hiện trong năm 1999 tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên cách đây 546 năm (tức năm 1453 dưới triều vua Lê Nhân Tông,1443-1450)nói về một cuộc chia đất cho dân canh tác, có nguyên văn như sau: Huyện quan chấp nhận cho họ đến canh khẩn ruộng tại xứ Đông. Mà nê Đông Tây tứ phía tổng cọng hơn một trăm mẫu. Phê duyệt cho Lê Cạnh, Đoàn Túy, Lê Văn Quế cùng với Phan Chó Con được khai khẩn thành thục, nộp thuế theo như lệ định (Theo Nguyễn Thế, Phát hiện văn bản Hán Nôm cổ cách đây 546 năm tại Phong Điền (Thừa Thiên-Huế). Nghiên Cứu Lịch sử số 3 (304),1999, tr 79-86 ). Một vùng đất trù phú như vậy hẳn là nơi đã sản xuất lúa gạo (thóc) nổi tiếng vào thời nhà Lê. Một vùng đất tốt tươi như vậy mà chịu mất đi, người Chiêm làm sao không đau xót và cố gắng tìm mọi cách để giành lại. Chính vì vậy mà năm 1470, vua Lê Thánh Tông đã mở cuộc chinh phạt, đuổi người Chiêm về phía nam núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) tỉnh Phú Yên ngày nay.

Nhân cuộc viễn chinh nầy, nhà vua đã dừng chân ở cửa biển Tư Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên, viết bài thơ Tư Dung Hải Môn Lữ Thứ, có bản dịch như sau :

Thuyền lầu khua trống đến Ô long
Bách nhị quan hà đây yếu xung
Giáp bãi núi cao xanh ngăn ngắt
Tiếp trời sóng vổ biển trùng trùng
Triều xưa sự nghiệp còn di tích
Nước Việt dư đồ nhân cựu phong
Lương bể chẳng từ gì cáu bẩn
Sông ngòi đâu cũng hướng về đông

Bài thơ nầy đuợc trích ra từ tập Minh Lương Cẩm Tú, gồm các sáng tác của nhà vua trong các năm 1470, 1471 Rõ ràng, thuyền tám tầm và thuyền lầu là những phương tiện hải hành thông dụng trong thời đó. Chắc chắn loại thuyền nầy đã nối Chợ Sãi với Huế, khi biết rằng sau năm 1307, vua Trần là Trần Anh Tông chính thức thâu nhận hai châu Ô, Lý và cải danh là châu Hóa và châu Thuận, và sai tướng Đoàn Nhữ Hài thiết lập guồng máy cai trị ở đó. Trong mô hình giao thương và kinh tế thời bấy giờ, hàng từ Lào sang Đại Việt không có con đường nào khác là qua Khe Sanh, Hướng Hóa, xuống Cam Lộ, qui tụ tại chợ Sòng ở làng Kim Đâu rồi theo sông Hiếu vào Thạch Hãn để lên bến chợ Sãi. Nguồn hàng từ Bắc vào Cửa Việt; nguồn hàng từ Ba Lòng qua Trấm đổ xuống đều do đường sông mà đến Chợ Sãi. Có lẽ Huế thời Đoàn Nhữ Hài chưa mấy ai biết đến, nhưng đến thời Lê Thánh Tông đã có Huế của Bao Vinh. Đến lúc thủy lộ chợ Sãi - Phá Tam Giang vào Thuận An thì Huế của Bao Vinh đã trở thành một chợ Sãi ở châu Thuận. Thao Lào, thóc Huế đã có mặt trên châu Hóa, châu Thuận, Thừa Tuyên Quảng Nam và khắp mọi miền đất nước của Đại Việt.

Phải chăng câu văn của vua Lê Thánh Tông đã có một căn bản địa lý lịch sử. Vậy thì tại sao cứ phải gọi Huế là do Hóa trong Thuận Hóa nói trại ra. Chẳng lẽ một nhà văn, một nhà thơ nổi tiếng như vua Lê Thánh Tông không đủ cho chúng ta tin, để cứ phải tin vào văn liệu các nhà ký sự Tây phương viết ra sau đó 156 năm ? Vua Lê Thánh Tông đã viết thao Lào (thao xứ Lào), thóc Huế (thóc xứ Huế) y như ngày nay chúng ta nói Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận vậy. Chắc chắn nhà vua đã không lầm khi đặt địa danh Huế và Lào bên cạnh nhau để làm tỉ đối các sản phẩm tiêu biểu của của hai xứ Đại Việt và Ai Lao.

Một địa danh bao giờ cũng có mốc thời gian tương đối của nó. Thành Quảng Trị, cũng gọi là thành Đinh Công Tráng, không nằm trên địa thế làng Cổ Thành. Thế nhưng trong cuộc chiến năm 1972, nhiều người cứ lầm tưởng Cổ Thành chính là thành Quảng Trị trong đó có Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Trị trấn đóng. Làng Cổ Thành có tuổi thọ cao hơn, nằm xa thành Quảng Trị hơn một cây số về hướng đông, trên một vùng đất gần chợ Sãi, nơi đây có dấu tích một thành trì được thiết lập từ xa xưa, ít ra trước thời Nguyễn Hoàng đến đóng quân ở Aí Tử năm Mậu Ngọ, 1558. Riêng các làng có tên như Trung Kiên, Hữu Kiên, Tả Kiên, Tiền Kiên, Hậu Kiên chắc chắn phải khai sinh sau năm 1558, vì những địa danh nầy chính là tên các đơn vị quân sự của chúa Nguyễn, sau đó đổi thành tên làng xã của cư dân, mà đa phần là gia đình của quân binh từ Thanh Hóa, Nghệ An đã theo Nguyễn Hoàng vào Nam.

Cũng vậy, phải nói địa danh Huế có trước khi Vua Lê Thánh Tông ghé đến, ít ra là trước năm 1497. Xóa khai sinh của một địa danh khi chưa cố gắng tìm ra chứng liệu khả tin trong kho tàng lịch sử dân tộc; nhận những dòng ký sự Tây phương như chứng liệu duy nhất, đó là một việc làm thiếu thận trọng. Dầu sao, về điểm nầy rất cần ý kiến của các bậc thức gỉa quan tâm đến văn hóa và lịch sử của một địa phương.

Tôi có một người bạn quê ở Quảng Trị. Tên là Ngô Ngọc Ch. Anh nói anh là con cháu họ Mạc. Lúc đầu tôi không tin. Nhưng đọc lại lịch sử thấy có mấy lần, họ của một dòng tộc phải thay đổi. Chẳng hạn, năm 1232, Trần Thủ Độ đã buộc họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn. Năm 1435, vua Lê Thái Tông (trị vì 1434-1442) vì có mẹ mang tên Phạm Thị Ngọc Trần, nên nhà vua ra lệnh ai mang họ Trần phải cải thành họ Trình. Họ Mạc, năm 1594, theo lời trăn trối của tướng Mạc Ngọc Liễn nói với vua Mạc Kính Cung: ‘’Họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Còn như dân ta là người vô tội sao lại nỡ để cho dân mắc vào vòng mũi tên hòn đạn lâu mãi như vậy! Chúng ta nên lánh ở nước khác, cốt phải cẩn thận giữ gìn, đừng lại cố sức chiến đấu với họ nữa. Lại dứt khoát chớ có đón rước người Minh kéo sang nước ta để đến nỗi dân ta phải lầm than khốn khổ...’’

Họ Mạc từ đó không đánh nhau với họ Lê nữa mà cải danh thành nhiều họ khác. Một số người còn muốn giữ lại chút liên hệ với tổ tiên nên đã giữ lại chữ lót như trong dòng họ Nguyễn Đăng. Trường hợp bạn tôi Ngô Ngọc, có phải đã giữ lại chữ Ngọc để nhớ Mạc Ngọc không ? Có người họ Mạc đổi cả họ lẫn chữ lót đó là con trai Mạc Cảnh Huống (em vua Hiến Tông Mạc Phúc Hải) vào Nam theo giúp Nguyễn Hoàng, tên là Mạc Cảnh Vinh, cải theo họ Nguyễn trở thành Nguyễn Hữu Vinh. Tất nhiên Nguyễn Hữu chỉ là một chi của họ Mạc (Theo Trần Gia Phụng, Những Câu Chuyện Việt Sử, Tập 2, Toronto, Canada, 1999, tr 121).

Theo một truyền thuyết, họ Đỗ, họ Thái cũng là con cháu họ Mạc, do muốn giấu kín tông tích mà cải ra như vậy. Có trường hợp họ Trần không đổi thành họ Trình mà đổi thành họ Bùi, vì chữ Bùi do chữ PHI và chữ Y ghép lại, nghĩa là KHÔNG ÁO. Không áo tức Ở TRẦN. Không hiểu họ Bùi ở làng An Lộng có nằm trong trường hợp nầy không? Hình như ở An Lộng họ Bùi và họ Trần chiếm đa số dân cư trong làng ?

Chuyện họ Cao do vụ án Cao Bá Quát mà cải họ là Kiều...và hẳn còn nhiều trường hợp đổi họ khác kỳ bí hơn nữa, mà sử sách chưa thấy nói tới.

Tướng nhà Mạc là Lập Bạo tính chuyện lập công, nên đầu mùa thu năm Nhâm Thân, 1572, đã kéo binh thuyền hơn 60 chiếc theo đường Hồ Xá đến đóng quân ở chùa Thanh Tương, xã Lãng Uyển, phủ Triệu Phong, toan mở cuộc tấn công đè bẹp đạo quân chúa Nguyễn ở Aí Tử. Đang phân vân chưa biết phải đương cự ra sao thì trong hàng tì thiếp có một mỹ nữ nhan sắc tên là Ngô Thị Ngọc Lâm, tình nguyện thực hiện kế mỹ nhân giúp chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Lập Bạo và cả đoàn tùy tùng lọt ổ phục kích do Ngô Thị Ngọc Lâm dàn cảnh trên bờ sông Aí Tử. Lập Bạo bị bắn chết khi cố bơi theo chiếc thuyền đã ra giữa dòng. Hàng ngũ rối loạn, thuyền đắm, người chết kín một khúc sông. Số còn lại đầu hàng. Nguyễn Hoàng cấp đất ở Cồn Tiên, lập thành 36 phường, cho sinh sống ở đó. Con cháu họ Mạc kể ra không ít trong số dân cư về sống ở đây.

Từ truông nhà Hồ, tôi tản mạn đi về Quảng Trị.

Thương em anh cũng muốn vô,
Sợ Truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm.

Kể ra quan Nội Tán kiêm Án Sát Sứ Nguyễn Khoa Đăng, đã thành công trong việc trị được bọn thảo khấu hoành hành ở truông Hồ Xá, phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, để hậu thế thấy rõ sự uy dũng của một võ quan, vang lừng thanh thế khắp vùng trấn nhậm chốn sơn phòng heo hút.

Ngày nay truông nhà Hồ [Cái truông ở làng Hồ Xá ] không còn nữa ! Từng doi đất của Phá Tam Giang đã bị xé ra từng mảnh. Nhà cửa, đất thâm canh bị trục ra biển Đông sau trận lũ lụt cuối năm 1999. Chiến tranh, thiên tai dồn dập và sự qui hoạch bừa bãi đã làm mất đi rất nhiều vẻ đẹp thiên nhiên của Quảng Trị ngày xưa.


Grand Prairie, Tháng 10 năm 2000
Nguồn: www.dunglac.org