Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011

You Are There: Ngài Có Đó


NGÀI CÓ ĐÓ- YOU ARE THERE
Tác giả: cô bé 11 tuổi, E. MacDonald sáng tác năm 2009.


Khi thiên sứ truyền tin cho Trinh Nữ,

Cả thiên đàng rộn rã tiếng hoan ca,
Nàng cưu mang Thánh Tử vượt gian nguy
Chúa trao tay dưỡng nuôi Nguồn Sự Sống.

Trong máng cỏ, Con Trời sinh hạ xuống,
Giêsu Kitô Sự Sống cho đời,
Thiên Chúa tỏ mình hào quang sáng tươi,
Xua đêm đen, dẫn vào Nguồn Ánh Sáng.

Điệp khúc:

Ngài có đó, Ngài vẫn đang ở đó,
Ngài có đó đoái nhìn họ khôn vơi,
Ngài thương ban Con Duy Nhất cho đời
Để chúng con không còn sống cô quạnh.

Khi mẹ con toan vứt bỏ sự sống,
Nhờ ơn Ngài, bà đã được thứ tha,
Ngài có đó, qua tình người sẻ chia,
Chính nhờ Ngài mà con đây được sống.

Ngài có đó, Ngài vẫn đang ở đó,
Ngài có đó, nhìn chúng con thiết tha.
Nhờ tình Ngài, chúng con được sinh ra,
Cha của con không còn cô đơn nữa.

Khi đến ngày phá thai hợp pháp hóa,
Cả Thiên đàng bỗng òa khóc than van
Giết bỏ sự sống, ôi thật sai lầm
Dù bị chết, đời đời em vẫn sống.

Ngài có đó, Ngài vẫn đang ở đó,
Ai bị ruồng bỏ, Ngài sẽ ủi an
Và khi Ngài ngự trị trên ngai vàng,
Chỉ ôm vào lòng hài nhi bé nhỏ.

Sống không hy vọng, tương lai héo úa,
Ngài vẫn còn đó nhắn nhủ đoàn con,
Chớ phá thai mất khả năng yêu thương,
Mất sự sống trao ban từ Thiên Chúa.

Chọn phá thai, sai lầm thật ghê sợ!
Thật vô lý, thật khó hiểu làm sao
Cướp sự sống em thơ tương lai dạt dào
Cướp quà tặng tuyệt vời ân sủng Chúa.

Ngài có đó, Ngài vẫn đang ở đó,
Ngài ở đó, dõi từng bước chân con.
Xin ban cho con sức mạnh can trường,
Đừng để con sống cô đơn, lạy Chúa!

Ôi lạy Chúa, Ngài vẫn luôn ở đó,
Xin giúp con thấy Chúa ở bên con.
Xin giúp con chọn Sự Sống tình thương,
Thêm niềm tin, chẳng còn cô đơn nữa…

….Ngài vẫn có đó.

Đình Chẩn, phỏng dệt thơ, 29.03.2011

Cô Bé 12 Tuổi Diễn Thuyết Bảo Vệ Sự Sống


*
***

***
*
THÁI ĐỘ CỦA MỘT NGƯỜI CÔNG GIÁO TRƯỚC THẢM HỌA PHÁ THAI?
Hiện nay não trạng phá thai đã đang lan tràn khắp nơi. Mỗi năm trên thế giới có khoảng trên 42 triệu ca phá thai, tức là 42 triệu em bé bị tước đoạt quyền sống, tương đương với một nửa dân số Việt Nam bị tiêu diệt! Chỉ riêng ở Việt Nam, dù chưa có luật tự do phá thai (?) vậy mà tỉ lệ phá thai cao gấp ba lần nước Mỹ, mặc dù tổng số dân chỉ bằng 1/4 nước họ (nước Mỹ hơn 350 triệu dân, với tỉ lệ phá thai khoảng 1 triệu ca/năm). Thậm chí, con số này còn cao hơn cả tổng số ca ở các nước thuộc Liên minh châu Âu cộng lại. Quý vị nghĩ gì khi trên thế giới có hơn 42 triệu ca thì riêng đất nước ta đã chiếm gần ba triệu ca rồi? Tại sao một dân tộc vốn tự hào có truyền thống yêu nước thương nòi nhân đạo, rồi “lương y như tử mẫu”…lại ra nông nỗi này?
Trước thực trạng trên, mỗi người có một thái độ, cách tiếp cận vấn đề khác nhau. Từ suy nghĩ nhận thức đúng đắn dẫn đến thái độ đúng mực, từ thái độ đúng mực dẫn đến hành động đúng mức. Những thái độ khác nhau tùy thuộc vào suy nghĩ, hiểu biết, tính cách, chung quy do giáo dục. Nhưng xét cho cùng, dù những thái độ khác nhau thế nào thì cũng chỉ xoay quanh ba quan điểm sau:
a. Ủng hộ phá thai: nếu không lấy đất đâu mà sống, cơm đâu mà nuôi, bôi tro trát trấu vào mặt dòng họ à?
b. Thờ ơ im lặng hoặc cho rằng: bận lắm, dại gì giây vào “chuyện nhậy cảm” ấy! Tốt nhất là để cho các vị quyền cao chức trọng giải quyết?
c. Tích cực Bảo vệ Sự Sống-văn minh tình thương, bằng mọi cách có thể: như ngọn nến nho nhỏ thắp lên những ngọn nến nhỏ khác, ngàn vạn ngọn nến sẽ xua tan đêm đen?
Trong ba thái độ trên, thái độ nào là đúng? Căn cứ vào đâu?
Trước hết, chúng ta biết rằng mọi sinh vật, động vật, bao gồm cả loài người, đều có một mẫu số chung: BẢN NĂNG SINH TỒN, hay còn gọi là bản năng sống, thiên hướng sống. Một cây hoa bị vùi dập nó vẫn đâm chồi nảy lộc hướng tới mặt trời; một con chó dù quý chủ thế nào đi nữa, nếu bị đánh, nó cũng tìm đường tẩu thoát. Sinh vật, động vật còn như thế huống chi là con người! Không những thế, loài người có lý trí, ý chí, khao khát sống, khao khát sự thật, nhất là sự thật tối thượng và hạnh phúc vĩnh cửu thì bản năng tự nhiên này còn quan trọng hơn nữa. Đó là luật tự nhiên bất di bất dịch. Thuật ngữ luật tự nhiên, trong tiếng Anh là naturale law, tiếng Pháp loi naturelle, bắt nguồn từ tiếng La tinh lex naturalis. Luật có nghĩa là trật tự, thứ tự. Tự nhiên có nhiều nghĩa: thiên nhiên, bản chất, yếu tính. Như thế luật tự nhiên có nghĩa là trật tự tự nhiên nó như thế, bất di bất dịch. Thực vậy, luật này không do con người tạo ra. Nó nằm ngay trong chính bản tính tự nhiên của con người. Chúng ta chỉ dùng lý trí nhận ra và thừa nhận nó như thế. Sở dĩ có luật cấm giết người cũng do phát xuất từ luật tự nhiên này. (Xin không nhầm lẫn với thuật ngữ luật của tự nhiên, law of the nature, tức là quy luật vận hành của vũ trụ, thiên nhiên). Người không có niềm tin tôn giáo thì giải thích rằng: tự nhiên nó như thế thì gọi là luật tự nhiên. Ngược lại, người Kitô hữu cho rằng luật tự nhiên này nằm trong luật vĩnh cửu do Thượng Đế tạo nên. Như thế, không ai có thể phủ nhận luật này dù đứng trên bất kỳ quan điểm nào.
Chính bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (TNQTNQ) năm 1948 được coi là đỉnh cao văn minh thời đại, cũng căn cứ trên luật tự nhiên qua đó khẳng định những quyền phổ quát áp dụng cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Cũng không phải ngẫu nhiên mà tuyên ngôn này trước tiên khẳng định: Tất cả mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền (điều 1). Rồi tiếp theo, mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân (điều 3). Có một điều đáng tiếc rằng bản tuyên ngôn này chỉ nói bảo vệ sự sống con người từ khi sinh ra. Có nghĩa là những thai nhi không được hưởng quyền nào? Hay phải ngầm hiểu rằng quyền sống của thai nhi nằm trong quyền của người mẹ?!
Mặt khác, nói đến quyền không thể bỏ qua trách nhiệm, quyền của người này là trách nhiệm của người kia và ngược lại. Từ hơn hai ngàn năm trước, triết gia Platone đã xây dựng một mô hình xã hội lý tưởng, trong đó mọi người đều đối xử với nhau theo luật đạo đức, xã hội được hướng dẫn bởi các triết gia, ai nấy chu toàn bổn phận của mình. Trong một xã hội toàn người đạo đức thì chẳng cần đến những điều luật nào ép buộc cả. Kinh Thánh cũng nói: yêu thương là chu toàn lề luật (Rm 13,8). Tuy nhiên, triết gia Aristotle cũng là đồ đệ của Platone khẳng định rằng, trên thế gian này không có mẫu người hoàn hảo, do vậy, xã hội phải được điều hành theo luật pháp. Triết gia Tommaso d’Aquino, tiến sĩ Hội Thánh, định nghĩa luật: “ordinatio rationis ad bonum commune ab eo qui curam communitatis habet promulgata”(Tommaso d’Aquino, Summa Theologiae, Iª-IIae q. 90 a. 4) nghĩa là nó phải hội đủ bốn nguyên tắc sau:
a. Là trật tự của lý trí: ordinatio rationis.
b. Hướng đến thiện ích chung: ad bonum commune.
c. Do người đứng đầu chịu trách nhiệm ab eo qui curam communitatis habet
d. Phải thông qua để mọi người được biết: promulgata
Thiếu một trong những nguyên tắc trên đây, đặc biệt hai nguyên tắc đầu tiên, thì luật đó phải bị coi là bất công, là phi lý. Tất cả các luật dân sự khác cũng phải tuân theo những nguyên tắc căn bản này. Cũng theo bản TNQTNQ, thì luật của các quốc gia cũng không được trái với công ước mà họ ký kết. Nghĩa là, luật quốc gia phải tuân theo công ước, công ước phải tuân theo luật tự nhiên, qua đó bảo đảm những quyền căn bản nhất của con người. Trái điều này là vi phạm nhân quyền.
Cho đến nay, rất nhiều quốc gia, đi đầu là Mỹ ngay từ những năm 1970, rồi các nước châu Âu đã hợp pháp hóa hành động phá thai thừa nhận và bảo vệ quyền được phá thai của người phụ nữ. Họ quan niệm rằng, thai nhi chưa phải là một con người, cho nên phá thai không phải là giết người. Đặc biệt những người ủng hộ phá thai còn cho rằng phá thai là dấu chỉ văn minh tiến bộ. Có thực sự là văn minh tiến bộ không?
Như đã phân tích phía trên, tất cả mọi luật do con người tạo ra phải tuân theo luật tự nhiên. Phá thai trái với lẽ tự nhiên, bởi lẽ, nó hủy diệt giai đoạn đầu tiên của của sự sống con người, bao gồm: thời kỳ thai nghén, thời kỳ thơ ấu, thời niên thiếu, thời trưởng thành, rồi lão hóa và chết. Không phải ngẫu nhiên mà người ta tính tuổi mụ, tức là tuổi nằm trong bụng mẹ đó sao?! Sự sống con người là toàn bộ các giai đoạn phát triển đó hợp thành. Điều đó hiển nhiên không phải bàn cãi. Các bộ phận cơ thể đã được hình thành ngay từ những tuần đầu tiên trong lòng mẹ, từ các chi thể đến những giây thần kinh. Những gì gọi là phát triển thì đã tiềm ẩn trong giai đoạn trước đó rồi. Sự sống con người là phép lạ tuyệt vời nhất do bàn tay vô hình của Thiên Chúa thêu dệt trong cung lòng người mẹ. Ngài mới chính là nguyên nhân tác thành, còn cha mẹ là nguyên nhân chất liệu. Càng những giai đoạn đầu, sự sống con người càng phải được bảo vệ. Do vậy, luật tự do phá thai là phi lý, bất công.
Ngược dòng lịch sử từ những năm 1970 về trước, giới Y khoa vẫn còn băn khoăn liệu phôi thai đã thực sự là con người hay không, nhưng ngày nay khi công nghệ máy siêu âm ra đời, và nhất là khi ngành Phôi thai học đã tiến bộ, thì không ai có thể phủ nhận rằng phôi thai chưa phải là một con người. Thuật ngữ thai nhi, phôi thai bắt nguồn từ tiếng La tinh fetus có nghĩa là một em bé, một thai nhi, một con người còn rất bé nhỏ. Có nghĩa là đó là một con người! Và xin lỗi, chẳng lẽ có ai lại mang thai chó bao giờ đâu mà bảo thai nhi không phải là người?!
Nếu phá thai là quyền của người mẹ, thì đâu là quyền sống của các thai nhi? Có thể có người vẫn lý sự rằng, thai nhi chưa phải là người mà! Thế thì họ biện minh làm sao với những trường hợp sinh non sau tháng thứ 5 trở đi? Em bé vẫn sống, nó không phải là người hay sao? Chị Gianna Jessen, một người sống sót sau phá thai, đã nói: “Nhân danh quyền của người phụ nữ, người ta đã tước đoạt quyền sống của tôi”.(http://www.youtube.com/watch?v=RUpLhd4T_Xc&feature=related). Ngược dòng lịch sử, một thời gian rất dài dân nô lệ cũng không được nhìn nhận là người, phải sống kiếp trâu ngựa thì sao? Trong lịch sử Giáo hội, cũng một thời những tín hữu không được coi là người thì sao? Chẳng nói đâu xa, người Công Giáo Việt Nam dưới triều Nguyễn bách hại Đạo bị coi là quân tả đạo thì sao, ngay thời nay, cách nào đấy cũng chỉ là công dân hạng hai thì sao?
Lại có ý kiến nói rằng, nếu không phá thai thì lấy đất đâu mà sống. Nghe có vẻ rất hợp lý, nhưng có thực sự như thế không? Tại sao đất nước ta mấy năm vừa qua có thừa đất cho mấy đại gia xây dựng hàng trăm sân golf ăn chơi? Tại sao hàng chục tỉnh phía bắc có đất cho ngoại bang thuê mà lại không có đất cho các thai nhi được sống, thậm chí chết không được chôn? Ở nhiều nước châu Âu bây giờ chính phủ còn phải thêm trợ cấp, khuyến khích sinh con thì sao?
Chưa hết, quý vị nghĩ gì khi thời nay con người gào thét thông qua đạo luật phá thai cho bằng được, đồng thời cũng lại gào cho bằng được thông qua luật bảo vệ chó? Giải thích thế nào đây khi người ta tỏ ra ghê sợ khi nghe nói ăn thịt chó, mà lại không hối tiếc khi phá thai? Điều đó chẳng đáng suy nghĩ sao? Trong diễn văn nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1979, Mẹ Têrêxa Calcutta đã phát biểu: Tôi cảm thấy sự phá hủy bình an ghê gớm nhất thời nay chính là phá thai. Đó là chiến tranh trực tiếp, giết người trực tiếp. Nếu một người mẹ còn có thể giết chính con mình, thì có gì bảo đảm rằng bạn không giết tôi và tôi không giết bạn vì giữa chúng ta chẳng có mối liên hệ gì cả? Cả thế giới gọi Người là Mẹ, nhưng được bao nhiêu người lắng nghe lời tâm huyết ấy?
Thực vậy, bác sĩ Nathanson một người đi tiên phong trong hoạt động phá thai, từng góp tay hợp pháp hóa đạo luật phá thai, là giám đốc trung tâm phá thai lớn nhất thế giới ở New York, cướp đi sinh mạng của hơn 75 ngàn thai nhi vô tội, rồi sau đó hối tiếc, ăn năn hối cải và gia nhập Công Giáo, ông đã viết sách tự thú có đoạn: Tôi vẫn thường tự hỏi mình chẳng phải nạn phá thai đang là căn nguyên của tất cả những vấn đề xã hội đó sao? Chẳng phải não trạng phá thai đã nhập nhiễm vào nền văn hóa của chúng ta đến mức nó đã làm ô nhiễm trầm trọng mọi cơ cấu xã hội bao phủ lên đời sống chúng ta: từ giáo dục, gia đình, tình dục, chính trị, cho đến kinh tế đó sao ?” (Bernard N. Nathanson, The Hand Of God – A Journey from Death to Life. Regnery Publishing, 1997, p.4)
Giáo Hội Công giáo luôn khẳng định sự sống con người là thiêng thánh bất khả xâm phạm ngay từ giây phút đầu tiên hình thành trong lòng mẹ cho đến khi chết tự nhiên. Người Công giáo, phát xuất từ niềm tin vào Thiên Chúa, dẫn đến hành động bảo vệ sự sống. Nếu tin mà không bảo vệ sự sống thì đức tin ấy có vấn đề, như trong thư thánh Giacôbê đã nói: “Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Ðàng khác, có người sẽ bảo:“Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin. Bạn tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như thế, và chúng run sợ. Hỡi người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụng không?” (Gc 2, 17-21).
Trong đoạn Tin Mừng Cuộc phán xét chung (Mt 25, 31-46), Chúa Giêsu đã phán với những người bên hữu: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”.[…]. Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”. Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?”. Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”.
Chúa đã đồng hóa chính mình với những người bé nhỏ. Thử hỏi giữa nền văn minh sự chết phá thai giết chóc này, còn ai bé nhỏ hơn các thai nhi vô tội?! Thực vậy, dù những con người này chưa cất được tiếng nói tự bảo vệ mình, nhưng chính vì thế họ là những con người cần được bảo vệ, chăm sóc hơn ai hết. Như thế: Im lặng trước tội ác là đồng lõa (mục sư Luther King), có quá đáng chăng?!
Hơn bao giờ hết, ngày nay nhân loại vẫn sa đi ngã lại cùng một cơn cám dỗ như ông bà nguyên tổ xưa: kiêu ngạo muốn ngang bằng Thiên Chúa. Người ta nhân danh văn minh tiến bộ để thông qua đạo luật phi lý hủy diệt, nhân danh quyền này quyền nọ để tước đoạt sự sống thai nhi vô tội mà thực ra chỉ vì tham lam ích kỷ, ngụy biện khó khăn này nọ để hủy diệt sự sống, thậm chí bao người coi cái sĩ diện dòng tộc gia đình nhiều khi vốn đã diêm dúa lại còn quan trọng hơn là sự sống, sự thật. Nhiều khi người ta viện cớ chuyện nhạy cảm, để lảnh tránh trách nhiệm, thờ ơ trước tội ác. Như vậy, hơn bao giờ hết con người ngày nay phải sám hối, nếu không sẽ phải gáy chịu hậu quả thảm hại.
Lạy Chúa, xin thương xót con và toàn thế giới. Chúng con đã xúc phạm đến Chúa đến các thai nhi vô tội cách trực tiếp hoặc gián tiếp khi im lặng thờ ơ. Xin thanh tẩy tâm hồn thân xác chúng con khỏi mọi tội lỗi. Xin thắp lên trong lòng chúng con ngọn nến nho nhỏ yêu thương BẢO VỆ SỰ SỐNG. Xin mở mắt những người trẻ chúng con để dõi theo ánh sáng Chúa đang chiếu tỏa trong bóng đêm cuộc đời giữa nhiều thứ ánh sáng mầu mè làm chúng con hoa mắt. Xin mở đôi tai để chúng con biết lắng nghe Lời Ngài giữa cuộc đời có quá nhiều náo động. Xin mở miệng lưỡi và đôi tay chúng con để chúng con có thể cao rao tình thương của Ngài bằng hành động cụ thể giữa cuộc đời nhiều sóng gió chực nhấn chìm con thuyền đức tin. Xin dùng lửa Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi mọi ham hố để trở nên máng cỏ đơn sơ cho Chúa ngự. Xin dắt chúng con đến gặp Chúa đang hiện diện nơi những thai nhi vô tội bị loại ra khỏi cuộc đời, và những người sống lay lắt bên đời. Amen.
30.03.2011, Đình Chẩn
Nguồn: email

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2011

Tại Sao Người Ta Lại...?

TẠI SAO NGƯỜI TA LẠI... ?
Lạy Chúa, thật lòng con không hiểu...
Tại sao người ta đang rất muốn có con, nhưng lại nỡ nào vào bệnh viện để phá thai chỉ vì bác sĩ bảo là có nguy cơ em bé bị dị tật, để rồi phải ân hận suốt đời vì tuyệt tự ?
Tại sao người ta thề hứa yêu thương nhau, không thể sống thiếu nhau, nhưng rồi khi biết tin có em bé thì lại đưa nhau đến bệnh viện để phá thai ?
Tại sao người ta sợ phải giáp mặt Cha Xứ, nhưng lại không biết sợ phải giáp mặt Chúa khi buộc con gái phải đi nạo thai để giữ sĩ diện trước người đời ?
Tại sao người ta lần chuỗi đọc kinh xin Đức Mẹ “cầu cho chúng con là kẻ có tội”, nhưng rồi lại đi xì xầm gièm pha, kết án một chị phụ nữ trót lỡ lầm chửa hoang nào đó ?
Tại sao người ta tỏ ra ghen tuông, đòi bạn đời của mình phải chung thủy, nhưng mình thì lại thoảI mái đi ngoại tình, chơi bời lăng nhăng, để rồi tan cửa nát nhà ?
Tại sao người ta bắt con cái trong nhà phải tuyệt đối vâng lời mình, nhưng mình thì lại bất hiếu, bất kính và bất nghĩa với cha mẹ già ?
Tại sao người ta xây nhưng ngôi nhà thật hoành tráng, lộng lẫy và nhiều tiện nghi, để rồi lại tự nhốt mình giữa những bức tường cao, các song sắt và hàng chông nhọn mảnh sành ?
Tại sao người ta sắm các loại xe cộ thật mạnh, thật sang, thật đắt tiền, để rồi chịu chết cứng nằm một chỗ ngoài đường khi kẹt xe tắc đường ?
Tại sao người ta tổ chức các bữa tiệc ăn uống linh đình, toàn những món đặc sản, bia hảo hạng, rượu cao cấp, nhưng sau đó lại say xỉn, nôn thốc nôn tháo cho bằng hết ?
Tại sao người ta đặt những bàn thờ Chúa trong nhà thật đẹp, nhưng đến tối cả gia đình lại ngước mặt dán mắt vào chiếc màn hình Tivi để thổn thức với các diễn viên Hàn Quốc, Hồng Kông ?
Tại sao người ta nài xin đòi hỏi Chúa đủ thứ, nhưng mình thì lại chẳng chịu chia sẻ chút tình nào cho chính những người thân cận ngay trong gia đình mình ?
Tại sao người ta có thể đọc đủ mọi thứ tào lao linh tinh trên báo giấy, báo mạng, báo hình, nhưng lại chẳng bận tâm đọc và ghi nhớ và sống một câu Lời Chúa trong Tin Mừng ?
Tại sao người ta rồng rắn xếp hàng để chờ được xưng tội, nhưng rồi lại đâu vào đấy, không cố gắng để hoán cải, để đổi đời, để sống tốt hơn ?
Tại sao người ta vẫn chăm chút tỉ mỉ chuyện giữ chay, nhưng lại không chịu giữ miệng ăn nói cho hòa nhã tử tế, giữ lòng cho thật thà trong sạch, không giữ chữ tín, chữ nghĩa trong cư xử giao dịch ?
Tại sao người ta đã chọn Chúa là Chúa của mình rồi, nhưng lại đi say mê suy tôn một ca sĩ là nữ thần ( Diva ), một cầu thủ là siêu sao ( Super star ), một người mẫu là thần tượng ( Idol ) ?
Tại sao người ta ghi vào sổ Gia Đình Công Giáo, tự nhận mình là người có Đạo, nhưng lại có thể thản nhiên sống như thể kẻ lạc đạo, mất đạo, vô đạo ?
Tại sao người ta đói và khát nhiều lắm rồi, nhưng lại không biết tìm đến xin với Chúa cho được nhận lấy Bánh-Hằng-Sống và múc lấy Nước-uống-rồi-không-còn-phải-khát-nữa ?
Lm. QUANG UY, DCCT, Chúa Nhật 27.3.2011
Nguồn: Ephata 452 www.trungtammucvudcct.com

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2011

Ứng phó nguy cơ động đất, sóng thần

07:44 | 26/03/2011
TP - Các chuyên gia dự báo nếu tâm chấn động đất xảy ra ở trung tâm TPHCM với cường độ 5 richter, sẽ có 30 - 40% nhà cửa sập.
Bản đồ phân vùng động đất tại TPHCM  Ảnh: L.T
Bản đồ phân vùng động đất tại TPHCM. Ảnh: L.T .
Theo đại diện Liên đoàn Địa chất bản đồ miền Nam (LĐ ĐCBĐMN), TPHCM chịu tác động bởi nhiều đới đứt gãy nên có nhiều khả năng xảy ra động đất. Từ năm 1967 đến nay, TPHCM xảy ra nhiều trận động đất, lớn nhất là trận động đất 4,8 độ richter ở khu vực cửa biển Cần Giờ (năm 1967).
TPHCM chịu ảnh hưởng bởi các đới đứt gãy sông Vàm Cỏ Đông; sông Sài Gòn, Bình Long-Chứa Chan; DakMil-Bình Châu; Hòn Khoai-Cà Ná; Mỹ Tho-Gò Công, Cửu Long - Côn Sơn, Thuận Hải - Minh Hải…
LĐ ĐCBĐMN mới đây hoàn thành bản đồ “Phân vùng nhỏ động đất TPHCM”. Dự báo cường độ động đất xảy ra mạnh nhất ở TPHCM sẽ không vượt quá 5,5 độ richter và độ sâu tiêu chấn không vượt qua 17 km.
Dù được xác định ít có nguy cơ song mức độ thiệt hại khi xảy ra động đất là rất cao. Bởi phần lớn diện tích TPHCM nằm trên nền đất yếu, nhiều nơi có nguy cơ đất hóa lỏng nhất là khu vực ven sông thuộc khu đô thị Nam Sài Gòn. Viện Vật lý địa cầu, cảnh báo nếu tâm chấn động đất xảy ra tại trung tâm TPHCM với cường độ 5 richter, sẽ có 30-40% nhà cửa bị đổ sập.
Sẵn sàng cho kịch bản xấu nhất
Năm 2008, Sở TN&MT TPHCM ban hành phương án ứng phó, khắc phục hậu quả động đất, sóng thần. Năm 2010, TPHCM chọn huyện Cần Giờ diễn tập ứng phó sự cố sóng thần, nước biển dâng và bão đổ bộ. TPHCM cũng chọn quận 4 (nằm gần đới đứt gãy sông Sài Gòn, bị thiệt hại nặng nhất nếu xảy ra động đất) để diễn tập ứng phó với dư chấn động đất.
Theo Sở TN&MT, TPHCM có thể xảy ra động đất gây sóng thần ở khu vực ven biển. Vì vậy, theo kịch bản, toàn bộ quận, huyện phải ứng phó, khắc phục hậu quả động đất. Riêng hai huyện Cần Giờ, Nhà Bè ứng phó thêm hiểm họa sóng thần.
TPHCM đã phát hành rộng rãi Sổ tay Hướng dẫn một số biện pháp phòng, tránh, ứng phó thiên tai trên địa bàn TPHCM, tuyên truyền kiến thức cần thiết để người dân tự bảo vệ khi có động đất.
Đối với hiểm họa sóng thần, theo Sở TNMT, cần xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ cho khu vực; thiết lập hệ thống cảnh báo sóng thần.
Quy hoạch và áp dụng giải pháp phòng chống sóng thần hợp lý cho các công trình trong khu vực hai huyện Cần Giờ, Nhà Bè; áp dụng giải pháp giảm tác động của sóng thần, như: tường chắn, rừng cây, giải pháp kết cấu, vật liệu, bố trí mặt bằng... Khi xuất hiện nguy cơ, địa phương tổ chức sơ tán người dân vào sâu trong đất liền cách bờ biển trên 10km.
Bộ Xây dựng đã phân vùng động đất cụ thể cho từng quận - huyện. Theo quy định, các công trình xây dựng ở TPHCM đều được thiết kế chịu động đất cấp VII. Mỗi quận - huyện có mức độ bị ảnh hưởng riêng. Việc phân vùng động đất để giúp từng quận - huyện tính toán độ kháng chấn cho từng công trình phù hợp, tránh lãng phí.
Theo Phó giám đốc Sở XD Nguyễn Văn Hiệp, sau mỗi lần xảy ra động đất, Sở đều kiểm tra một số chung cư cũ, cao ốc. Hầu hết chỉ bị rung lắc, chưa có công trình nào bị thiệt hại sau động đất.
TS Nguyễn Sinh Minh, Viện trưởng Viện KHCN và Kinh tế xây dựng Hà Nội, cảnh báo, các kết quả nghiên cứu cho thấy Hà Nội nằm trong vùng động đất trung bình đến cấp 8, nhưng nhiều người còn chủ quan, công tác tuyên truyền rất hạn chế.
Sở Xây dựng Hà Nội khẳng định, những toà nhà cao tầng mới xây đã được tính toán kháng chấn. Nhưng hàng trăm chung cư cũ xuống cấp nghiêm trọng, hàng vạn nhà dân tự xây không được kiểm soát về chất lượng. Đợt rung chấn tối 24-3 được coi là sự kiểm chứng đối với văn bản chỉ đạo mới đây của UBND thành phố Hà Nội về cảnh báo, triển khai phòng tránh và khắc phục hậu quả động đất.
Tuấn Minh

Phạm Lê Thư

Dự báo các chấn tâm động đất của Việt Nam


SGTT.VN - Lâu nay nhiều lần nghe báo tin động đất ở miền Trung,
ở thành phố Hồ Chí Minh, ở Tây Bắc, ở cao nguyên đá vôi
Đồng Văn - Hà Giang. Tuy vậy đều đ­ược các nhà chuyên môn
giải thích là do d­ư chấn của các trận động đất mà chấn tâm
của nó nằm ở Vân Nam (Trung Quốc), ở Lào và ở Biển Đông.
Một số người dân vẫn còn lo lắng sau khi dư chấn xảy ra tối 24.3.2011 từ động đất 7 độ richter ở Myanmar. Ảnh chụp tại tòa nhà i9 Thanh Xuân Bắc, Hà Nội. Ảnh: Trịnh Văn
Một số người dân vẫn còn lo lắng sau khi dư …
Thiết nghĩ không phải như­ vậy, bởi vì ai cũng biết, động đất lan truyền bởi sóng địa chấn. Sóng này lan truyền theo hình cầu và tắt nhanh theo khoảng cách. Nếu ở Việt Nam (Sài Gòn, Ninh Thuận, Bình Thuận, Điện Biên, v.v.) đo đ­ược 4 – 5 độ Richter, thì ở cách xa đó hàng trăm cây số, động đất sẽ có cấp bao nhiêu, trong khi chấn tâm của trận động đất đo đ­ược chỉ ở độ sâu cỡ vài chục km. Quan niệm ch­ưa đúng này không phải chỉ có ở Việt Nam
Chúng tôi cho rằng, động đất có thể xảy ra đồng thời ở nhiều nơi trên thế giới, chúng ta chỉ ghi nhận đ­ược tại những nơi có ng­ười ở và những nơi có trạm quan sát động đất. Vì vậy nếu ở nơi nào đó tại Việt Nam ghi nhận hoặc cảm thấy có động đất thì chấn tâm gây ra trận động đất ấy phải ở trong lòng đất khu vực đó và cách xa nơi ghi nhận đ­ược không quá vài chục km.
Nếu biết đ­ược vị trí các chấn tâm động đất đã và có thể xảy ra ở Việt Nam, nói riêng, trên quả đất nói chung, chúng ta có thể chủ động hơn trong việc phòng, tránh động đất và hạn chế tác hại của nó. Mặt khác, không đ­ược xây dựng các công trình quan trọng như­ đập thuỷ điện, nhà máy điện nguyên tử lên các vùng giữa hoặc rất gần chấn tâm động đất.
Cơ sở khoa học của những ý kiến nêu trên như sau. Thứ nhất, về địa chất: Dễ dàng công nhận rằng, động đất được gây ra do các hoạt động bên trong lòng đất của các khối đá macma xâm nhập nông á núi lửa trẻ. Các khối đá macma này tái hoạt động nhiều lần tại giao điểm của 4 đứt gãy sâu. Có thể nói: sự tái hoạt động của các khối đá macma trẻ và đứt gãy là nguyên nhân của nhau và nguyên nhân của các trận động đất. Vì vậy, chấn tâm động đất chính là giao điểm của 4 đứt gãy sâu có khối macma xâm nhập nông á núi lửa đang hoạt động. Các chấn tâm động đất được nối với nhau bởi các đứt gãy theo quy luật kiến tạo. Quả đất có rất nhiêu đứt gãy sâu, ở Việt Nam cũng như vậy. Do đó đã và sẽ có rất nhiều chấn tâm động đất.
Mặt khác, do sự phân dị kết tinh, các khối đá macma thành phần axit lớn đã kết tinh ổn định. Các khối đá macma hiện còn hoạt động chủ yếu có thành phần bazic hoặc bazơ-kiềm, ít nơi là các mạch, cột đá trung tính hoặc axit chứa nhiều quặng sắt – sulfua đa kim.
Thứ hai, về địa vật lý, các khối đá macma thành phần bazơ và bazơ-kiềm nêu trên có tỷ trọng cao (cỡ 3,1 – 3,2 kg/dm3) và từ tính rất mạnh. Vì vậy, các chấn tâm động đất sẽ có vị trí trùng với các điểm trùng nhau của trung tâm các dị th­ường dư­ơng trọng lực và dị thường tr­ường từ toàn phần T. Quy mô của các dị thường từ và trọng lực càng lớn (về c­ường độ và diện tích) thì khối l­ượng của các khối macma càng lớn và động đất càng mạnh. Tuy vậy, cần đề phòng những dị thường địa vật lý (từ và trọng lực) nhỏ như­ng lại liên quan với các khối xâm nhập nông á núi lửa trẻ còn đang hoạt động, hoặc sắp hoạt động trở lại.
Việc xác định các đứt gãy sâu cho quả đất và cho Việt Nam là khó chính xác và sẽ có nhiều tranh cãi. Nh­ưng giao điểm của các đứt gãy, nơi hoạt động của các xâm nhập nông á núi lửa trẻ thành phần bazơ-kiềm thì có thể dùng các ph­ương pháp địa vật lý thăm dò từ và trọng lực để xác định và không ai có thể nghi ngờ được.
Bản đồ dự báo các chấn tâm động đất miền Bắc
Bản đồ dự báo các chấn tâm động đất …
Bản đồ dự báo các chấn tâm động đất miền Nam
Bản đồ dự báo các chấn tâm động đất …

Xuất phát từ các quan điểm nêu trên và trên cơ sở phân tích các bản đồ từ hàng không tỷ lệ 1/1.000.000 của Việt Nam do Liên Xô giúp (ở miền Bắc) và hải quân Mỹ (ở miền Nam) tiến hành bay đo vào những năm 1960 đến 1970 của thiên niên kỷ tr­ước, chúng tôi đư­a ra một bản đồ dự báo các chấn tâm động đất ở Việt Nam (miền Bắc và miền Nam).
Chúng tôi cho rằng, Việt Nam có rất nhiều nơi từng là chấn tâm động đất. Chúng phân bố nhiều nhất ở Tây Bắc, Nam Trung Bộ, Sài Gòn - Bà Rịa, dải Sóc Sơn - Mê Linh ( Hà Nội), Cao Bằng – Hà Giang, ít hơn ở vùng Đông Bắc và đồng bằng Bắc bộ. Ở ngoài khơi, nếu có bản đồ trư­ờng từ và trọng lực thì việc xác định các chấn tâm động đất cũng làm t­ương tự.Thông thường, theo tác giả, tâm của các trận sóng thần phải trùng với chấn tâm động đất ở ngoài khơi.
Chúng tôi chư­a và không thể phân biệt được vùng nào có các khối xâm nhập nông á núi lửa trẻ còn hoạt động, vùng nào sẽ không hoạt động nữa để biết ở đâu sẽ có động đất. Tuy vậy, nếu có động đất xảy ra ở Việt Nam, thì chấn tâm của nó sẽ ở trên đất Việt Nam, tại một số nơi trong những điểm mà chúng tôi đã đánh dấu, với sai số không nhiều.
TS LÊ HUY Y
Liên hiệp Khoa học địa chất và Du lịch

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2011

Đại gia bỏ tiền tỉ mua hài cốt mồ côi

Ông Lâm Văn Tuyến, một đại gia ở thôn Tân Lý, xã Trực Hùng,
huyện Trực Ninh (Nam Định) đã bỏ tiền tỷ ra làm một việc
hết sức dị thường: Mua hài cốt không người thừa nhận
về để xây nghĩa địa riêng.

Suốt mấy năm treo biển thu gom mộ hoang, ông đã… có trong tay gần 1.500 ngôi mộ, xây thành hai nghĩa địa khang trang.
Trách nhiệm với đời
Trên cánh đồng xã Tân Lý có hai khu nghĩa địa vuông vức với những ngôi mộ được xây cất giống nhau, thẳng tăm tắp. Đầu mỗi khu nghĩa địa đều có biển với những dòng chữ ngay ngắn: "Ai phát hiện ra hài cốt mồ côi ở ruộng, gò, xin báo cho ông Tuyến! Xin cảm ơn!".
Chúng tôi tìm ông Tuyến. Ông đi vắng. Sáng nay, dân trong xã báo ở cánh đồng thôn Tân Phường có một ngôi mộ không người thừa nhận. Hay tin ông vội vã lên đường, kéo theo mấy người đào mộ chuyên nghiệp.
Qua điện thoại, ông hẹn sáng hôm sau mới gặp chúng tôi. Hôm sau, đúng hẹn, chúng tôi gặp ông. Ông khác xa những gì chúng tôi mường tượng. Ông bảo, nhà ông theo Chúa, Chúa trời đã nâng đỡ nghiệp làm ăn của gia đình ông thì ông phải có trách nhiệm với đời.
Ngày xưa ông khổ lắm. Nhà đông anh em, bố mẹ mất sớm, ông phải đi làm thuê để mưu sinh qua ngày. Khi lớn lên, chính Chúa trời đã cho ông một cái nhìn nhanh nhạy. Dân huyện ông nhiều người đi biển, thừng chão cột tàu đều phải mua ở tỉnh ngoài với giá “cắt cổ”. "Thứ ấy mình có thể làm ra, sao phải đi mua". Nghĩ thế, ông bỏ công sức đi gom những bao dứa người ta vứt đi về mày mò làm thử "vẫn phải đi mua" ấy.
Dùng thử chão của ông làm, mọi người thấy mê vì giá rẻ bất ngờ. Ban đầu, ông chỉ bán hàng trong xã, trong huyện. Sau này, dân trong tỉnh và các tỉnh có nghề đi biển khác chỉ tin dùng mỗi dây chão mang "thương hiệu ông Tuyến". Sản xuất tới đâu xe về “ăn” hàng ngay tới đó.
Ông Lâm Văn Tuyền
Bây giờ, ông không theo nghề nữa. Cả đời lao động vất vả cũng cần có thời gian để nghỉ ngơi. Nghĩ thành quả mà mình có được là do Chúa trời rộng lòng trợ giúp, ông muốn báo ơn. Theo đó, ông muốn quy tập tất cả những nấm mồ vương vãi trên địa bàn xã, thậm chí trên cả huyện.
Như người đang làm dự án lớn, ông làm tờ trình xin đất. Ban đầu, chính quyền địa phương vô cùng ngạc nhiên về dự án của ông. Rồi sự ngạc nhiên ấy hóa thành nỗi hồ nghi. Nhiều người còn độc mồm cho rằng, đằng sau việc nghĩa tình dị thường đó, ông có ý định khác. Nhưng rồi sau nhiều lần bị ông thuyết phục, chính quyền địa phương cũng đồng ý giao đất cho ông.
Nặng lòng với… người dưng
Sau một thời gian chuẩn bị, chừng đầu năm 2008 thì “dự án” của ông chính thức triển khai. Để công việc của mình được hanh thông, ông đã tuyển chọn trong xã hơn chục lực điền bạo gan. Họ đảm trách việc bốc mộ và "ăn lương" theo… "sản phẩm". Chẳng biết bởi lý do gì mà xã ông có rất nhiều những nấm mồ vô chủ. Có bãi đất khi dân làm ruộng, vô tình phát hiện cả chục ngôi mộ nằm thẳng hàng sâu dưới lòng đất.
Coi những người nằm dưới mồ hoang như chính thân nhân mình, ông Tuyến làm việc hết sức chu đáo. Bốc mồ cho người nhà thế nào thì với những ngôi mồ vô chủ ông làm thế đó. Cũng tiểu sành, cũng nước thơm, cũng vải điều, cũng cầu nguyện chu tất.
Tiếng lành đồn xa, việc làm khác thường nhưng vô cùng cao đẹp của ông chẳng mấy mà lan ra mấy xã lân cận. Tin báo "mộ hoang" cứ tới tấp bay về. Chẳng kể sớm khuya, ông đi biền biệt. Thương ông vất vả, vợ ông cũng xúm vào trợ giúp. Bà lo phần sổ sách, hậu cần cho "dự án" của ông.
Sau hai năm quy tập và xây dựng, bây giờ hai khu nghĩa địa khang trang đã được khánh thành. Bà Dịu, vợ ông bảo, đến thời điểm này, hai khu nghĩa địa đã có tới gần 1.500 ngôi mộ. Tuy nhiên, những tin báo về mộ hoang vẫn cứ bay về.
Hai khu nghĩa địa đã hết "biên chế", những nấm mồ mới được người dân quy tập đành phải "xếp hàng", nằm tạm bên ngoài. Ông Tuyến hé lộ, sắp tới, ông sẽ xin xã lập thêm một nghĩa địa nữa để những linh hồn… về chậm kia có nơi yên nghỉ vĩnh hằng.
Không màng lợi lộc
Ông đặt tên cho hai khu nghĩa địa của mình cái tên đơn giản: "Nghĩa địa mồ côi". Bây giờ, nhìn vào sự khang trang của hai khu nghĩa địa ấy, hồ nghi ngày nào của mọi người đã hoàn toàn biến mất. Ngạc nhiên, cảm phục, và trân trọng, ấy là tình cảm mọi người dành cho ông. Tuy nhiên, câu hỏi "ông làm vậy để được cái gì" thì đến giờ vẫn chẳng ai có thể đưa ra câu trả lời.
Năm ngoái, có ông cán bộ Trung ương đánh xe bóng nhoáng tìm về nhà ông. Ông cán bộ này vốn quê gốc ở đây, tuy nhiên, gia đình đã rời quê đi sơ tán từ những năm chống Pháp. Gặp ông Tuyến, ông cán bộ này bảo, mấy năm trước, khi nhắm mắt xuôi tay, cha ông ta có dặn dù thế nào cũng phải về quê tìm lại mồ mả ông nội.

Sau một thời gian dài nhờ nhà ngoại cảm kiếm tìm, chẳng biết đúng hay sai nhưng ông cán bộ ấy khẳng định đã tìm thấy mộ của ông nội mình. Đó là một nấm mồ được xây cất cẩn thận như bao nấm mồ khác trong khu "nghĩa địa mồ côi".

Nỗi ước mong bao năm được giải tỏa, ông cán bộ ấy mừng lắm. Ông Tuyến kể, mấy lần ghì chặt tay ông, vị cán bộ ấy hết lời ơn huệ. Sau cùng, ông ta đưa ra lời đề nghị là được đưa hài cốt ông nội mình về Hà Nội. Tuy nhiên, theo một cam kết mà tự ông thảo ra, tất cả những nấm mồ trước đây không có người thừa nhận đã được ông đưa về nghĩa địa này thì mãi mãi ở lại đây. Bởi thế, ông từ chối.

Biết không thể thuyết phục được ông, vị cán bộ ấy đã khẩn khoản mong ông nhận mình làm anh em kết nghĩa. Thế nhưng, nguyện vọng đó cũng bị ông gạt đi. Ông bảo, ông sẽ có trách nhiệm chăm nom người đã khuất trong nấm mồ đó như bao linh hồn khác ở nghĩa địa này. Còn khi nào về quê cha đất tổ thì hãy xem nhà ông như nhà mình, ăn với ông một bữa cơm, uống với ông một chén rượu, như thế là tình nghĩa, là vui lắm rồi.
Xây nghĩa địa chỉ để đón những linh hồn không nơi nương tựa, ấy là mục đích ban đầu mà ông Tuyến đặt ra. Thế nhưng, bây giờ, nhiều người chiếc bóng đơn côi cũng tìm đến ông. Họ mong ông dành cho họ một suất đất trong khu nghĩa địa để sau này nhắm mắt xuôi tay còn thấy ấm áp tình người. Trước những yêu cầu bi thương ấy, ông không thể không gật đầu.
(Theo Dân Việt)