BÀI 3. NHỮNG CƠN GIÔNG, BÃO TỐ CHỰC CHỜ … (2)
4. Không thể tách ly khỏi bóng dáng của cha mẹ
Mọi đôi bạn nếu muốn sống thực sự cuộc sống lứa đôi của mình phải luôn hướng tới sự tách ly khỏi hình bóng của cha mẹ. Người ta thường quá xem nhẹ sự tách ly khỏi cha mẹ về thể lý cũng như về tâm lý. Đó có thể trở thành nguyên do (có khi kín đáo và không được ý thức) cho những khủng hoảng sâu xa trên hành trình hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ. Người ta cảm thấy bất an nghĩ rằng cuộc sống lứa đôi của mình chưa bao giờ thật sự bắt đầu và càng không cảm thấy nó triển nở một cách riêng tư và độc lập đối với bóng dáng cha mẹ.
“Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mình và mẹ mình” đây hẳn không chỉ là một lời mời ra đi, đi ra khỏi nhà cha mẹ để tạo một mái nhà khác. Lời mời gọi kinh thánh này còn vang vọng những ý nghĩa khác xa hơn, mời gọi mỗi người đàn ông và người đàn bà, tự cõi thâm sâu nhất, tách ly hoàn toàn ra khỏi các đấng đã sinh thành mình, để có thể gặp gỡ tha nhân với ý thức hoàn toàn về tự ngã của mình.
Hôn nhân thường được định nghĩa như là một cuộc phiêu lưu khởi đầu từ lúc nói lời ưng thuận cách công khai, một cuộc hành trình sẽ phải dẫn đến một sự tách ly trong nội tâm khỏi hình bóng của cha của mẹ. Điều chính yếu không phải là tách ly để mà quên, nhưng để có khả năng biến đổi những khuôn mặt đó trở nên mới trong nội tâm của mình và việc nội tâm hóa đó phải nhiều lắm để làm phát sinh một tự ngã mới từ những hình bóng đó. Những hình ảnh của cha của mẹ ấy sẽ được sống một cách mới mẻ và cách khác với trước.
“Đôi khi người ta nghĩ là đã cưới một người đàn ông của đời mình nhưng người ta lại tái tạo cho anh ta những tiếp xúc vỗ về của người mẹ. Hay ngược lại, người ta nghĩ là đã cưới một người phụ nữ của đời mình nhưng lại tái tạo cho cô nàng một lối giao tiếp bảo bọc của người cha.”
Có khi khuôn mẫu của cha mẹ, và một cách đặc biệt khuôn mẫu của người mà đã để lại trên ta một dấu ấn sâu đậm nhất trong suốt thời kỳ ta lớn dậy, tồn tại nơi một trong hai người bạn đời sâu đến nỗi được tái tạo lại trong thực tại gia đình mới với cũng một cung cách cư xử hằng ngày y như thế. Và còn hơn thế nữa, khuôn mẫu ấy xuất hiện khi người ta giáo dục con cái qua sự tái hiện lại cùng những khuôn văn hóa và qui tắc giáo dục xưa. Từ đó có thể nảy sinh xung đột nơi đôi bạn, bởi lẽ người ta cảm thấy căn tính mới của đôi bạn không hề triển nở, mà chỉ đơn thuần là tái hiện trở lại những gì trước đây một trong hai đôi bạn đã tham dự. Đó chỉ là một cái tiền sử không được xét lại, không được đổi mới, không sinh ra từ thực tại mới của vợ chồng, một tiền sử mà người bạn đời kia như kẻ ngoại cuộc.
Độc lập đối với cha mẹ về mặt tâm lý quả thật không phải dễ dàng còn bởi một lý do nữa. Khi bắt đầu một cuộc hành trình theo hướng tách ly như thế đó, người ta thường cảm thấy ít nhiều mặc cảm tội lỗi và phản bội như thể mình đã “bỏ rơi” đấng bậc sinh thành. Đàng khác, “chỉ người nào có can đảm và sức mạnh tách ly dần khỏi những người khác, kể cả cha mẹ mình, để thể hiện chính mình cách đầy đủ, mới có thể tìm thấy lại được người khác và chính mình trong khuôn khổ của một tình yêu dâng hiến chứ không phải là của một thứ vị kỷ được che đậy”1. Theo nghĩa đó, lời mời gọi của Thánh kinh thật ý nghĩa và cấp bách: “Con người sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và cả hai sẽ nên một xác thịt” (St 2,24).
5. Những bất trung
“Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mình và mẹ mình” đây hẳn không chỉ là một lời mời ra đi, đi ra khỏi nhà cha mẹ để tạo một mái nhà khác. Lời mời gọi kinh thánh này còn vang vọng những ý nghĩa khác xa hơn, mời gọi mỗi người đàn ông và người đàn bà, tự cõi thâm sâu nhất, tách ly hoàn toàn ra khỏi các đấng đã sinh thành mình, để có thể gặp gỡ tha nhân với ý thức hoàn toàn về tự ngã của mình.
Hôn nhân thường được định nghĩa như là một cuộc phiêu lưu khởi đầu từ lúc nói lời ưng thuận cách công khai, một cuộc hành trình sẽ phải dẫn đến một sự tách ly trong nội tâm khỏi hình bóng của cha của mẹ. Điều chính yếu không phải là tách ly để mà quên, nhưng để có khả năng biến đổi những khuôn mặt đó trở nên mới trong nội tâm của mình và việc nội tâm hóa đó phải nhiều lắm để làm phát sinh một tự ngã mới từ những hình bóng đó. Những hình ảnh của cha của mẹ ấy sẽ được sống một cách mới mẻ và cách khác với trước.
“Đôi khi người ta nghĩ là đã cưới một người đàn ông của đời mình nhưng người ta lại tái tạo cho anh ta những tiếp xúc vỗ về của người mẹ. Hay ngược lại, người ta nghĩ là đã cưới một người phụ nữ của đời mình nhưng lại tái tạo cho cô nàng một lối giao tiếp bảo bọc của người cha.”
Có khi khuôn mẫu của cha mẹ, và một cách đặc biệt khuôn mẫu của người mà đã để lại trên ta một dấu ấn sâu đậm nhất trong suốt thời kỳ ta lớn dậy, tồn tại nơi một trong hai người bạn đời sâu đến nỗi được tái tạo lại trong thực tại gia đình mới với cũng một cung cách cư xử hằng ngày y như thế. Và còn hơn thế nữa, khuôn mẫu ấy xuất hiện khi người ta giáo dục con cái qua sự tái hiện lại cùng những khuôn văn hóa và qui tắc giáo dục xưa. Từ đó có thể nảy sinh xung đột nơi đôi bạn, bởi lẽ người ta cảm thấy căn tính mới của đôi bạn không hề triển nở, mà chỉ đơn thuần là tái hiện trở lại những gì trước đây một trong hai đôi bạn đã tham dự. Đó chỉ là một cái tiền sử không được xét lại, không được đổi mới, không sinh ra từ thực tại mới của vợ chồng, một tiền sử mà người bạn đời kia như kẻ ngoại cuộc.
Độc lập đối với cha mẹ về mặt tâm lý quả thật không phải dễ dàng còn bởi một lý do nữa. Khi bắt đầu một cuộc hành trình theo hướng tách ly như thế đó, người ta thường cảm thấy ít nhiều mặc cảm tội lỗi và phản bội như thể mình đã “bỏ rơi” đấng bậc sinh thành. Đàng khác, “chỉ người nào có can đảm và sức mạnh tách ly dần khỏi những người khác, kể cả cha mẹ mình, để thể hiện chính mình cách đầy đủ, mới có thể tìm thấy lại được người khác và chính mình trong khuôn khổ của một tình yêu dâng hiến chứ không phải là của một thứ vị kỷ được che đậy”1. Theo nghĩa đó, lời mời gọi của Thánh kinh thật ý nghĩa và cấp bách: “Con người sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và cả hai sẽ nên một xác thịt” (St 2,24).
5. Những bất trung
Sự bất trung, là điều vốn thường xuyên bào mòn quan hệ vợ chồng. Trước hết, là sự bất trung tinh vi và hằng ngày được thực hiện gần như là không cố ý, và xem ra không góp phần gì quan trọng cho hành vi phản bội, nhưng ngược lại, chính vì nhỏ nhặt và tinh tế mà nó dần đục khoét thành những hố sâu ngăn cách.
Một hình thức đầu tiên của sự bất trung thường nhật là sự bất trung của những kẻ không bước vào tương giao. Lời nói có thể là dấu chỉ của sự trung thành, mà cũng có thể là của sự bất trung nếu chúng không thực sự ăn khớp với cảm giác và tình cảm của chúng ta. Rồi thinh lặng cũng thế, đó có thể chất chứa sự trung thành hay bất trung. Một thái độ thinh lặng không nói nhưng kèm theo những cử chỉ yêu thương hay tận tụy thường nhật với sự chia sẻ đầy đủ những tình cảm là một sự thinh lặng trung thành. Một sự thinh lặng do không biết bộc lộ bằng lời những tình cảm như giận dữ, thù ghét, phục tùng tự ý hay miễn cưỡng, muốn gây hấn mà không bộc phát được, không chia sẻ qua những cử chỉ yêu thương hay có trách nhiệm, là một sự thinh lặng chất chứa bất trung cản trở thiết lập mọi tương giao.
Do đó sự bất trung có thể nảy sinh do thiếu tương giao sâu đậm trong cuộc sống hằng ngày, cũng như có thể nảy sinh do thường xuyên thiếu sự chia sẻ và nhất là thiếu sự dịu dàng nhân hậu và đồng cảm. Sự bất trung cũng nảy sinh khi mối quan hệ bị tàn phá do tràn ngập những khó khăn hay ngược lại do sự đều đặn buồn tẻ của cuộc sống hằng ngày. Nó là một tấm màn che phủ làm mờ nhòa mọi sự và làm mọi sắc màu nhạt phai, đó là sự đều đặn nhàm chán của cái thường nhật, là tuyến đường thẳng băng không một chút gợn gờ nhấp nhô đe dọa, nếu đôi bạn không tìm thấy nơi mình khả năng tái sinh, đổi mới cung cách quan hệ. Tình trạng đó được nhận ra khi thấy sự mệt mỏi chán chường chiếm ngự không gian sống của đôi bạn. Càng ngày người này càng mất khả năng nhìn người kia với một cặp mắt mới; những lời nói yêu thương dành cho nhau trở nên thưa dần.
Đối tượng của tình yêu thương có thể được thay thế dễ dàng bởi những thứ khác như một sự né tránh, nơi trốn tránh. Chẳng hạn như công việc, hay thú tiêu khiển giải trí cho tới lúc ấy chỉ như là trò giải trí cho qua thời gian rỗi rảnh, bạn bè, nhà cửa, một góc vườn kín đáo nơi dành mọi bận tâm, chăm sóc. Người ta không còn nghĩ kẻ sống bên cạnh mình luôn là một con người mới cần phải khám phá, hiểu biết hơn về những khát vọng, hy vọng của người ấy, cũng như những thất bại, suy nghĩ thầm kín nhất, những cảm giác sâu xa nhất của người ấy. Có thể có cám dỗ về một thứ bất trung khác: một người đàn ông khác hay một người phụ nữ khác là một cái gì mới mẻ, khả dĩ làm tươi mới lại những lời nói yêu thương đã đi vào quên lãng, khả dĩ làm sống trở lại những cảm xúc, những tình cảm xem ra như đã mất.
Rồi còn có một thứ bất trung cuối cùng, thường ít được nhận thấy, đó là: chạy theo một lý tưởng đời đôi bạn tưởng tượng viển vông, không thực tế. Lý tưởng đó có thể là về đối tượng phối ngẫu mà ta muốn sống với, do trí tưởng tượng dựng lên một cách thiếu thực tế đến độ kẻ sống bên cạnh ta không thể đáp ứng và chịu đựng nổi, cảm thấy mình không xứng hợp và dần dần chối từ làm bạn đồng hành và nhường chỗ cho cái ‘đài tưởng niệm’ không tưởng đó. Lý tưởng cũng có thể là về chính bản thân ta: tham vọng về mình quá cao và quá xa vời so với thực tế của chính bản thân, so với ước muốn của người bạn đời kia, vốn chỉ mong có một người bạn đơn sơ, cụ thể và có khả năng chia sẻ một cuộc sống thực tế.
Cũng có bất trung trong mối quan hệ vợ chồng ở mãi trong tình trạng hòa quyện tan hòa vào nhau. Sự tan hòa ấy trộn lẫn và tiêu diệt các căn tính hoàn toàn khác lạ với quan hệ tình yêu đích thực. Tình trạng này dầu sao đi nữa cũng không thể coi là một sự trung thành thực sự được, vì đó là một sự trung thành đối với một tình yêu không tưởng, chưa hề là tình yêu đích thực vốn được xây dựng trên những nền tảng khác. Bởi đó là sự trung thành, xét cho kỹ, của hai kẻ không có khả năng chấp nhận cô đơn, không có khả năng để cho người khác được cô đơn; và như thế là của hai con người chưa có tự do thật.
Thật là một hiểu lầm đáng buồn nếu ta xem trung thành được diễn tả như một khát vọng chiếm hữu, một quyến luyến bệnh hoạn, không để không gian cho người kia diễn tả mình, hoặc như một thái độ bảo bọc muốn lo toan mọi sự, tiên liệu mọi sự, chu cấp mọi sự, khiến người kia không còn gì để mà khát khao, chọn lựa, không còn gì có thể sai lầm! Một tình yêu mà nhân danh một sự trung thành ngột ngạt như thế thực ra là một sự bất trung sâu xa đối với dự phóng nền tảng của mọi hôn nhân, một cuộc hôn nhân nhìn thấy trên hành trình yêu thương tự do và đem lại giải thoát một cơ hội cho mọi tiềm năng và phong phú cá nhân được triển nở.
Cũng một cách y như vậy sự bất trung ẩn mình dưới mọi hình thức lệ thuộc. Sự lệ thuộc, có thể là dưới những hình thức cung ứng quá dư thừa những tiện nghi dù là vì yêu, sẽ dễ dàng sinh ra nhiều sự bất trung nho nhỏ. Những bất trung tạo nên bởi những khát vọng không thực hiện, bởi những mơ mộng hoài vọng không được chia sẻ, bởi những hành động thực hiện theo hướng nghĩa vụ chứ không do một chọn lựa yêu thương, bởi những lời nói trên môi cười mà lòng dửng dưng, bởi những mong đợi ở nhau không được bộc lộ và đáp ứng, không được nhận biết, thông cảm, đón nhận.
6. Khi không có tự do
Một hình thức đầu tiên của sự bất trung thường nhật là sự bất trung của những kẻ không bước vào tương giao. Lời nói có thể là dấu chỉ của sự trung thành, mà cũng có thể là của sự bất trung nếu chúng không thực sự ăn khớp với cảm giác và tình cảm của chúng ta. Rồi thinh lặng cũng thế, đó có thể chất chứa sự trung thành hay bất trung. Một thái độ thinh lặng không nói nhưng kèm theo những cử chỉ yêu thương hay tận tụy thường nhật với sự chia sẻ đầy đủ những tình cảm là một sự thinh lặng trung thành. Một sự thinh lặng do không biết bộc lộ bằng lời những tình cảm như giận dữ, thù ghét, phục tùng tự ý hay miễn cưỡng, muốn gây hấn mà không bộc phát được, không chia sẻ qua những cử chỉ yêu thương hay có trách nhiệm, là một sự thinh lặng chất chứa bất trung cản trở thiết lập mọi tương giao.
Do đó sự bất trung có thể nảy sinh do thiếu tương giao sâu đậm trong cuộc sống hằng ngày, cũng như có thể nảy sinh do thường xuyên thiếu sự chia sẻ và nhất là thiếu sự dịu dàng nhân hậu và đồng cảm. Sự bất trung cũng nảy sinh khi mối quan hệ bị tàn phá do tràn ngập những khó khăn hay ngược lại do sự đều đặn buồn tẻ của cuộc sống hằng ngày. Nó là một tấm màn che phủ làm mờ nhòa mọi sự và làm mọi sắc màu nhạt phai, đó là sự đều đặn nhàm chán của cái thường nhật, là tuyến đường thẳng băng không một chút gợn gờ nhấp nhô đe dọa, nếu đôi bạn không tìm thấy nơi mình khả năng tái sinh, đổi mới cung cách quan hệ. Tình trạng đó được nhận ra khi thấy sự mệt mỏi chán chường chiếm ngự không gian sống của đôi bạn. Càng ngày người này càng mất khả năng nhìn người kia với một cặp mắt mới; những lời nói yêu thương dành cho nhau trở nên thưa dần.
Đối tượng của tình yêu thương có thể được thay thế dễ dàng bởi những thứ khác như một sự né tránh, nơi trốn tránh. Chẳng hạn như công việc, hay thú tiêu khiển giải trí cho tới lúc ấy chỉ như là trò giải trí cho qua thời gian rỗi rảnh, bạn bè, nhà cửa, một góc vườn kín đáo nơi dành mọi bận tâm, chăm sóc. Người ta không còn nghĩ kẻ sống bên cạnh mình luôn là một con người mới cần phải khám phá, hiểu biết hơn về những khát vọng, hy vọng của người ấy, cũng như những thất bại, suy nghĩ thầm kín nhất, những cảm giác sâu xa nhất của người ấy. Có thể có cám dỗ về một thứ bất trung khác: một người đàn ông khác hay một người phụ nữ khác là một cái gì mới mẻ, khả dĩ làm tươi mới lại những lời nói yêu thương đã đi vào quên lãng, khả dĩ làm sống trở lại những cảm xúc, những tình cảm xem ra như đã mất.
Rồi còn có một thứ bất trung cuối cùng, thường ít được nhận thấy, đó là: chạy theo một lý tưởng đời đôi bạn tưởng tượng viển vông, không thực tế. Lý tưởng đó có thể là về đối tượng phối ngẫu mà ta muốn sống với, do trí tưởng tượng dựng lên một cách thiếu thực tế đến độ kẻ sống bên cạnh ta không thể đáp ứng và chịu đựng nổi, cảm thấy mình không xứng hợp và dần dần chối từ làm bạn đồng hành và nhường chỗ cho cái ‘đài tưởng niệm’ không tưởng đó. Lý tưởng cũng có thể là về chính bản thân ta: tham vọng về mình quá cao và quá xa vời so với thực tế của chính bản thân, so với ước muốn của người bạn đời kia, vốn chỉ mong có một người bạn đơn sơ, cụ thể và có khả năng chia sẻ một cuộc sống thực tế.
Cũng có bất trung trong mối quan hệ vợ chồng ở mãi trong tình trạng hòa quyện tan hòa vào nhau. Sự tan hòa ấy trộn lẫn và tiêu diệt các căn tính hoàn toàn khác lạ với quan hệ tình yêu đích thực. Tình trạng này dầu sao đi nữa cũng không thể coi là một sự trung thành thực sự được, vì đó là một sự trung thành đối với một tình yêu không tưởng, chưa hề là tình yêu đích thực vốn được xây dựng trên những nền tảng khác. Bởi đó là sự trung thành, xét cho kỹ, của hai kẻ không có khả năng chấp nhận cô đơn, không có khả năng để cho người khác được cô đơn; và như thế là của hai con người chưa có tự do thật.
Thật là một hiểu lầm đáng buồn nếu ta xem trung thành được diễn tả như một khát vọng chiếm hữu, một quyến luyến bệnh hoạn, không để không gian cho người kia diễn tả mình, hoặc như một thái độ bảo bọc muốn lo toan mọi sự, tiên liệu mọi sự, chu cấp mọi sự, khiến người kia không còn gì để mà khát khao, chọn lựa, không còn gì có thể sai lầm! Một tình yêu mà nhân danh một sự trung thành ngột ngạt như thế thực ra là một sự bất trung sâu xa đối với dự phóng nền tảng của mọi hôn nhân, một cuộc hôn nhân nhìn thấy trên hành trình yêu thương tự do và đem lại giải thoát một cơ hội cho mọi tiềm năng và phong phú cá nhân được triển nở.
Cũng một cách y như vậy sự bất trung ẩn mình dưới mọi hình thức lệ thuộc. Sự lệ thuộc, có thể là dưới những hình thức cung ứng quá dư thừa những tiện nghi dù là vì yêu, sẽ dễ dàng sinh ra nhiều sự bất trung nho nhỏ. Những bất trung tạo nên bởi những khát vọng không thực hiện, bởi những mơ mộng hoài vọng không được chia sẻ, bởi những hành động thực hiện theo hướng nghĩa vụ chứ không do một chọn lựa yêu thương, bởi những lời nói trên môi cười mà lòng dửng dưng, bởi những mong đợi ở nhau không được bộc lộ và đáp ứng, không được nhận biết, thông cảm, đón nhận.
6. Khi không có tự do
Một bất trung nặng nề là một bất trung không đi tìm chính sự tự do của bản thân mình và cũng không giúp người bạn đời kia được tự do. Tự do là một gút mắt quan trọng và khó khăn nhất trong mọi quan hệ đích thực, nhất là quan hệ hôn nhân.
Một cuộc hôn nhân trung tín là một hôn nhân có sức giải phóng, đem lại sự giải thoát, tự do đích thật cho con người. Một người kết hôn mà không lo liệu giải phóng mình khỏi những áp lực, khống chế bên ngoài lên trên chính mình, và đồng thời không giúp cho người bạn của mình cũng được giải phóng như thế, thì không trung tín với giao ước, với bí tích. Bởi lẽ chỉ có giao ước và bí tích thật sự và có sức sống khi hai vợ chồng trao ban cho nhau khoảng không gian để thực hiện các ân huệ mà Chúa Cha đã trao ban cho mỗi người con của Ngài, cách trọn vẹn. Thế nên không có mâu thuẫn giữa trung thành và tự do. Đúng hơn, trung thành là trung thành trong tự do; tự do thật là tự do để yêu thương cách trung thành.
Xác định đâu là những khía cạnh không có tự do trong quan hệ, đâu là những lý do để cuộc hành trình hướng tới tự do đích thực trở nên bấp bênh và bế tắc, không phải là việc dễ dàng. Tình trạng nội tâm giới hạn thực sự sự tự do đôi khi rất khó xác định, và để giải thoát thì càng khó hơn. Tình trạng ấy có thể là cá nhân, gắn liền với lịch sử đã qua của mỗi người, hoặc có thể xuất phát từ cách sống và xây dựng đời đôi bạn.
Sự tự do mà ta đang nói tới không phải là sự tự do làm theo dục vọng và ước muốn riêng của mình, cho bằng là sự tự do của tư tưởng và hành động. Hành động của mỗi người thường là kết quả qui định bởi những hạn chế nhỏ hay lớn của cuộc sống hằng ngày ngăn cản người ta thực hiện điều người ta khát mong. Nhưng nếu trí óc và con tim biết di chuyển tự do trong không gian của một ước vọng và một dự phóng, là điều vốn được chia sẻ bởi người bạn đời kia, thì người ta sẽ không có cảm giác bị áp chế, thất vọng, thù ghét ngấm ngầm chực chờ bộc phát bạo lực. Những tâm trạng tiêu cực đó gây ra nhiều thiệt hại cho đời sống hôn nhân và là nguyên nhân cho khủng hoảng sâu sắc, nhất là khi chúng bị dồn nén với cảm giác tâm lý bị ức chế không bộc lộ được cách tự do.
Đàng khác, chính những gì người ta nói, bàn về tình yêu vẫn còn hàm hồ. Bởi lẽ, người ta thường nhân danh chính tình yêu sinh chuyện áp chế, làm bầu khí ngột ngạt, với những qui định một chiều. Xác định những điều đó và thoát ra khỏi chúng không phải dễ dàng. Bởi lẽ những khía cạnh hoà tan vào nhau của ái tình thuở đầu hoạt động mạnh mẽ và len lỏi sâu xa đến độ có khi sau nhiều năm hôn phối hai người vẫn không thể thoát ra khỏi sự quá lệ thuộc nhau. Người ta cứ luôn cần phụ thuộc vào người kia hoặc cần người kia phụ thuộc mình. Thế nhưng sự phụ thuộc đến độ nô lệ không phải là dấu chỉ của tình yêu đích thật vì trong sự phụ thuộc đó không có tự do chọn lựa, không có nhiệt tình tự nguyện dấn thân, không có sự dâng hiến của ân ban. Đúng hơn, khi không có khả năng chọn lựa nào khác, người ta không thể bộc lộ chính mình, sự lệ thuộc chỉ khiến người ta cam chịu không sống đời mình một cách viên mãn được.
Nhiều người bắt đầu cuộc sống hôn nhân với ý nghĩ là, vì tình yêu mà lấy nhau người ta cần khước từ sự tự do của mình. Bổn phận, trách nhiệm có xu hướng khiến người ta bị ngột ngạt và thay thế tình yêu. Ngược lại, sự tự do nội tâm của mỗi người đối ngẫu là một bảo đảm chính yếu cho sự bền vững của quan hệ vợ chồng. Hôn nhân không phải là một sợi dây ràng buộc thắt chặt, nhưng là một sự hợp nhất tự nguyện và tự do qua từng ngày.
Hẳn là tự do làm ta lo sợ, nhất là khi phải bỏ đi những khung suy nghĩ cũ kĩ mà từ đó người ta xây dựng cuộc đời và quan hệ vợ chồng riêng mình. Đó là những cớ lý thuận tiện thường được dùng để chống đỡ những bất lực và những sợ hãi của ta. Sợ phải phiêu lưu để tìm tòi khám phá những điều mới mẻ, sợ mình không có khả năng chấp nhận những cách thức sống mới với chính bản thân, với người bạn đời, với những người khác. Thế nhưng, chỉ có con đường giải phóng được người bạn đời mới có thể sống hiệp thông thật sự.
Tự do chắc chắn là có mạo hiểm và đó chính là điều đôi khi người ta sợ phải chấp nhận. Nhưng sự mạo hiểm của tự do của ta và của người bạn đời mới là trọng tâm. Không có tự do cũng sẽ không có đạo lý vì không có chọn lựa và cũng không thể có được tình yêu. Tự do ở ngay trung tâm của cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống Thiên Chúa muốn phải được sống trong tự do và đã trả bằng cái giá của thập tự.
------------------------------------
1 M. Bertini, “Il matrimonio come processo di evoluzione psichica”, in L. Ancona, Nuove Questioni di Psicologia, La Scuola, Brescia.
Ban Mục vụ Gia đình TGP.TPHCM
Một cuộc hôn nhân trung tín là một hôn nhân có sức giải phóng, đem lại sự giải thoát, tự do đích thật cho con người. Một người kết hôn mà không lo liệu giải phóng mình khỏi những áp lực, khống chế bên ngoài lên trên chính mình, và đồng thời không giúp cho người bạn của mình cũng được giải phóng như thế, thì không trung tín với giao ước, với bí tích. Bởi lẽ chỉ có giao ước và bí tích thật sự và có sức sống khi hai vợ chồng trao ban cho nhau khoảng không gian để thực hiện các ân huệ mà Chúa Cha đã trao ban cho mỗi người con của Ngài, cách trọn vẹn. Thế nên không có mâu thuẫn giữa trung thành và tự do. Đúng hơn, trung thành là trung thành trong tự do; tự do thật là tự do để yêu thương cách trung thành.
Xác định đâu là những khía cạnh không có tự do trong quan hệ, đâu là những lý do để cuộc hành trình hướng tới tự do đích thực trở nên bấp bênh và bế tắc, không phải là việc dễ dàng. Tình trạng nội tâm giới hạn thực sự sự tự do đôi khi rất khó xác định, và để giải thoát thì càng khó hơn. Tình trạng ấy có thể là cá nhân, gắn liền với lịch sử đã qua của mỗi người, hoặc có thể xuất phát từ cách sống và xây dựng đời đôi bạn.
Sự tự do mà ta đang nói tới không phải là sự tự do làm theo dục vọng và ước muốn riêng của mình, cho bằng là sự tự do của tư tưởng và hành động. Hành động của mỗi người thường là kết quả qui định bởi những hạn chế nhỏ hay lớn của cuộc sống hằng ngày ngăn cản người ta thực hiện điều người ta khát mong. Nhưng nếu trí óc và con tim biết di chuyển tự do trong không gian của một ước vọng và một dự phóng, là điều vốn được chia sẻ bởi người bạn đời kia, thì người ta sẽ không có cảm giác bị áp chế, thất vọng, thù ghét ngấm ngầm chực chờ bộc phát bạo lực. Những tâm trạng tiêu cực đó gây ra nhiều thiệt hại cho đời sống hôn nhân và là nguyên nhân cho khủng hoảng sâu sắc, nhất là khi chúng bị dồn nén với cảm giác tâm lý bị ức chế không bộc lộ được cách tự do.
Đàng khác, chính những gì người ta nói, bàn về tình yêu vẫn còn hàm hồ. Bởi lẽ, người ta thường nhân danh chính tình yêu sinh chuyện áp chế, làm bầu khí ngột ngạt, với những qui định một chiều. Xác định những điều đó và thoát ra khỏi chúng không phải dễ dàng. Bởi lẽ những khía cạnh hoà tan vào nhau của ái tình thuở đầu hoạt động mạnh mẽ và len lỏi sâu xa đến độ có khi sau nhiều năm hôn phối hai người vẫn không thể thoát ra khỏi sự quá lệ thuộc nhau. Người ta cứ luôn cần phụ thuộc vào người kia hoặc cần người kia phụ thuộc mình. Thế nhưng sự phụ thuộc đến độ nô lệ không phải là dấu chỉ của tình yêu đích thật vì trong sự phụ thuộc đó không có tự do chọn lựa, không có nhiệt tình tự nguyện dấn thân, không có sự dâng hiến của ân ban. Đúng hơn, khi không có khả năng chọn lựa nào khác, người ta không thể bộc lộ chính mình, sự lệ thuộc chỉ khiến người ta cam chịu không sống đời mình một cách viên mãn được.
Nhiều người bắt đầu cuộc sống hôn nhân với ý nghĩ là, vì tình yêu mà lấy nhau người ta cần khước từ sự tự do của mình. Bổn phận, trách nhiệm có xu hướng khiến người ta bị ngột ngạt và thay thế tình yêu. Ngược lại, sự tự do nội tâm của mỗi người đối ngẫu là một bảo đảm chính yếu cho sự bền vững của quan hệ vợ chồng. Hôn nhân không phải là một sợi dây ràng buộc thắt chặt, nhưng là một sự hợp nhất tự nguyện và tự do qua từng ngày.
Hẳn là tự do làm ta lo sợ, nhất là khi phải bỏ đi những khung suy nghĩ cũ kĩ mà từ đó người ta xây dựng cuộc đời và quan hệ vợ chồng riêng mình. Đó là những cớ lý thuận tiện thường được dùng để chống đỡ những bất lực và những sợ hãi của ta. Sợ phải phiêu lưu để tìm tòi khám phá những điều mới mẻ, sợ mình không có khả năng chấp nhận những cách thức sống mới với chính bản thân, với người bạn đời, với những người khác. Thế nhưng, chỉ có con đường giải phóng được người bạn đời mới có thể sống hiệp thông thật sự.
Tự do chắc chắn là có mạo hiểm và đó chính là điều đôi khi người ta sợ phải chấp nhận. Nhưng sự mạo hiểm của tự do của ta và của người bạn đời mới là trọng tâm. Không có tự do cũng sẽ không có đạo lý vì không có chọn lựa và cũng không thể có được tình yêu. Tự do ở ngay trung tâm của cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống Thiên Chúa muốn phải được sống trong tự do và đã trả bằng cái giá của thập tự.
------------------------------------
1 M. Bertini, “Il matrimonio come processo di evoluzione psichica”, in L. Ancona, Nuove Questioni di Psicologia, La Scuola, Brescia.
Ban Mục vụ Gia đình TGP.TPHCM
Nguồn: http://hdgmvietnam.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét