Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Linh đạo hôn phối theo thánh GH Gioan Phalô II: Để hôn nhân trở nên một ơn gọi


LINH ĐẠO HÔN PHỐI 
THEO THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ


LTS- « LINH ĐẠO HÔN PHỐI THEO THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II » là tác phẩm thứ 32 mà Ban Tu Thư Giáo Xứ Việt Nam Paris vừa soạn để « Kỷ niệm ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được tuyên phong Hiển Thánh, 27.04.2014 » và để « Kỷ niệm 20 năm sinh hoạt của Ban Mục Vụ Gia Đình, 1995-2015 ». Chúng tôi xin được hân hạnh giới thiệu tác phẩm này với quí độc giả.

Xin Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban phúc lành cho những người góp phần thực hiện tác phẩm này, cũng như cho quí độc giả thân thương. Tất cả để vinh danh Thiên Chúa và thánh hóa các gia đình.


Bài được phổ biến :

1. LỜI MỞ, ngày 17.04.2014

2. Thần học Thân xác và Linh đạo Hôn phối của Lm Mai Đức Vinh, ngày 24.04.2014

3. Hôn nhân trong ánh sáng Hôn lễ của Đức Kytô và Giáo Hội, của Lm Mai Đức Vinh, ngày 01.05.2014

4. Duyên lành và thánh thiện của cặp vợ chồng của Ptvv Phạm Bá Nha, ngày 08.05.2014.

5. Hôm nay, ngày 15.05.2014 xin giới thiệu bài 5 « Để Hôn nhân trở nên một ơn gọi » của C. Micheline Kim Chi


ĐỂ HÔN NHÂN TRỞ NÊN MỘT ƠN GỌI

"Hôn nhân trở nên như ơn gọi của Kitô hữu với điều kiện phản ảnh được tình yêu của Chúa Kitô hôn phu, yêu thương Giáo Hội hôn thê, và Giáo Hội cố gắng đáp trả tình yêu ấy"

(Gioan Phaolô II, buổi tiếp kiến ngày 18.8.1982)

1. CHO MÌNH HAY CHO NGƯỜI

Đám cưới nào cũng là niềm vui cho gia đình và bạn bè của cô dâu chú rể. Những câu chúc và quà tặng cho đôi uyên ương thật ý nghĩa và tốt đẹp như: trăm năm hạnh phúc, hạnh phúc tới răng long tóc bạc v.v Nhất là niềm vui của cô dâu, như xác nhận một lần nữa với cha mẹ: Đây là người đàn ông con đã chọn, người sẽ mang lại hạnh phúc cho đời con.

Kết hôn là việc tự nhiên của con người, có người muốn có một trạng thái đầy đủ về cảm xúc và tình cảm trong hôn nhân, thường thấy ở phái nữ, hay hy vọng những xoa dịu của tình dục, xảy ra với phái nam. Và cũng không thiếu những đôi kết hôn để tìm được sự an toàn của một vài điều trong cuộc sống: tiền bạc, danh vọng, hay để lấp một khoảng trống cô đơn. Đây là sự thường gặp ở những người tìm mọi cách đi đến hôn nhân, để thoát ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn nào đó. Thái độ này thường làm cho người bạn yêu lẩn tránh dù bạn không thiếu những tính tốt, nhưng người khác phái có cảm nhận là họ bị bạn lợi dụng.

Xã hội hiện đại có xu hướng phá vỡ những giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình truyền thống, hôn nhân như chiếc bình thủy tinh mong manh dễ vỡ, vì mỗi hôn nhân là kết hợp giữa hai người khác biệt, có những quan điểm, ý thích không giống nhau, mâu thuẫn về nhiều điều. Khi hai người dự định kết hôn để thành lập một gia đình, cần xem xét kỹ lưỡng về những cá biệt của mình với người bạn đời, để có thể đồng ý phát triển, một tinh thần hôn nhân thích hợp cho cả hai. Đây có thể là một tiến trình rất khó khăn, nếu vội vàng thì sự tìm hiểu sẽ dễ lầm lẫn đưa tới thất vọng khi chung sống vì sự khác biệt của mỗi người.

Nếu coi hôn nhân như động lực để đạt mọi điều ước muốn của mình thì đó là một sự nguy hiểm không nhỏ. Người bạn đời của mình sẽ trở nên một phương tiện để thỏa mãn nguyện vọng mình đã "xây mộng", quên rằng người đó là con người chứ không phải là một dụng cụ. Nhiều khi cả hai người cùng một mục đích tìm ở đối tượng những khả năng để thỏa mãn tự ái cá nhân, họ mong tìm được hạnh phúc với người bạn đời của mình, trong trường hợp này, không có gì là sai trái, Sự tự nguyện cả hai là do tình cảm và lương tâm, khác với ơn gọi của các linh mục, tu sĩ, sự kết hôn của họ là xu hướng tự nhiên của con người, không phải là đáp lại ơn gọi, ngay cả khi họ lãnh nhận Bí tích hôn phối.

Bản tính hôn nhân là phát triển giá trị phục vụ và yêu thương của hai vợ chồng, người ta kết hôn để khám phá ra cách chia sẻ cho nhau tình yêu, ân sủng và tài năng mà Chúa đã ban cho mỗi người, trong hôn nhân không có sự lấn áp, ai hơn ai kém. Kết hôn là cơ hội cho người chồng và người vợ phục vụ lẫn nhau để xây đắp hôn nhân và tạo hạnh phúc gia đình, mà nó sẽ được coi là một đơn vị có giá trị của nước Thiên Chúa ở trần gian.

2. KHẢ NĂNG HAY ƠN GỌI

Dưới khía cạnh Kitô giáo, hôn nhân là một ơn gọi, là một hành động tốt đẹp và thánh thiện, là Bí tích, tình yêu vợ chồng trở nên phương tiện để qua đó mỗi người cảm nhận được tình Chúa yêu thương, nâng đỡ, qua lời kinh nguyện. Điều này giúp cho vợ chồng vượt qua được những cám dỗ, khó khăn đầy rẫy trong đời sống hôn nhân. Chỉ có thể gọi hôn nhân Công Giáo là ơn gọi khi tình yêu của vợ chồng được thể hiện với những đòi hỏi như "Hôn nhân tương đương như ơn gọi của người Kitô hữu với điều kiện phản ảnh được tình yêu của Chúa Kitô hôn phu, yêu thương Giáo Hội hôn thê, và Giáo Hội cố gắng đáp lại tình yêu ấy". Đức Phaolô II đã nhấn mạnh trong buổi tiếp kiến ngày 18.08.1982. Lời nói này là sự đòi hỏi tuyệt đối làm những người sửa soạn kết hôn e ngại, chúng ta hãy chú ý từng chữ, Ngài nói rất rõ: "Không phải là ơn gọi… Nếu…" Khi vợ chồng cùng hứa yêu thương nhau như yêu thương Thiên Chúa, cả hai đã tạo được một ơn gọi hôn nhân đích thực. Tính cách tuyệt đối và cốt lõi điều Đức Thánh Cha đưa ra làm chúng ta phải suy nghĩ: tình yêu này phải phản ảnh tình yêu tuyệt đối của Chúa Kitô hôn phu, với Giáo Hội hôn thê. Yêu đến độ Ngài đã tận hiến mình chết trên thập giá.

Nếu tình yêu của vợ chồng cũng tương tự như tình yêu của Chúa với Giáo Hội thì vợ chồng cũng phải thương yêu nhau hết lòng và hy sinh cho nhau. Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy tình yêu của bao người đã hiến mình vì ơn gọi yêu thương Giáo Hội (các Thánh tử vì đạo, các Thánh, những nhà truyền giáo) thật không phải dễ! Nhưng chỉ cần, khi kết hôn vợ chồng theo đúng những đòi hỏi của tình yêu thương nhau thì hôn nhân đó đã là một ơn gọi đích thực của người Kitô giáo.

Hôn nhân Công Giáo còn là một tương giao với Thiên Chúa như là một thành phần hợp tác cùng hai vợ chồng, là một quyết định đứng đắn và ngay thẳng để bao gồm Thiên Chúa như một dấu chỉ bảo chứng cho tình yêu hai người. Tin tưởng Thiên Chúa hiện diện trong tình yêu hôn nhân đem lại một kết quả thực tiễn khác: khi có những xung khắc, bất hòa, thử thách, vợ chồng ít muốn đối nghịch với nhau. Họ quay về với Thiên Chúa để tìm sự trợ giúp, cùng cầu nguyện chung, trong những lúc khó khăn nhất, họ luôn tin tưởng và dựa vào sự hiện diện của Ngài trong đời sống lứa đôi để bám chặt, tìm về bên nhau.

3. KẾT HÔN HAY VIỆC LÀM

Nếu hôn nhân trở nên một ơn gọi của Kitô hữu thì đôi vợ chồng cũng phải nghĩ và xây dựng cho nhau trong đời sống hôn nhân và nghề nghiệp. Văn hóa hiện đại thời nay đánh giá tất cả vào sự thành công hay những đòi hỏi của nghề nghiệp, là Kitô hữu chúng ta cần suy nghĩ sâu xa hơn về sự liên hệ giữa những hoạt động nghề nghiệp và ơn gọi hôn nhân. Làm cách nào đặt thứ tự và tầm quan trọng giữa bổn phận gia đình và công ăn việc làm, nhất là khi nghề nghiệp đòi hỏi ta phải dành nhiều thì giờ?

Thật khó tìm được giải pháp toàn vẹn. Nếu đôi vợ chồng cùng xem hôn nhân như một ơn gọi để hiến dâng tình yêu cho nhau như Đức Kitô đã hiến mình cho Giáo Hội thì ơn gọi Kitô hữu phải làm trước tiên là lo cho hôn nhân và gia đình của họ, đó cũng là điều đẹp ý Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, cũng có những cặp vợ chồng quá lo toan cho nghề nghiệp mà quên hẳn bổn phận gia đình.

Khi anh Đông, luật sư, và chị Xuân, kỹ sư nông lâm, quyết định xin chịu Bí tích hôn phối sau một năm rưỡi yêu nhau, gia đình, bạn bè đều vui mừng và cho rằng họ là cặp vợ chồng lý tưởng, rất xứng đôi. Cả hai đều đã nỗ lực để thăng tiến trong nghề nghiệp, với những hy sinh, để đạt được thành công như hiện tại, họ nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục cố gắng hơn để xây dựng sự nghiệp, tạo một gia đình hạnh phúc. Sáu tháng sau, Đông được lên chức nhưng phải đi làm việc ở bên Arabie Saoudite, Xuân không muốn chồng đi làm xa, nhưng Đông đã thuyết phục vợ với những lý lẽ chắc nịch và rất thực tế như: thời buổi kinh tế khủng hoảng, đây là cơ hội để Đông sẽ tiến xa hơn, lương tăng gấp ba, vợ chồng phải hy sinh để củng cố ngân quỹ gia đình lo cho con cái sau này, không lâu anh sẽ trở lại Pháp làm việc... Xuân đành đồng ý để chồng đi làm xa dù chị hơi e ngại, vợ chồng chị sẽ cô đơn, trống trải lắm đây vì "anh ở đầu sông, em cuối sông". Hai, ba tháng một lần, Đông và vợ đi thăm nhau, làm chuyến khứ hồi đã mất hai ngày, thời gian gần nhau chẳng được bao nhiêu, chưa kể có những khi Đông bận rộn vì việc làm, họp ở sở bất kể ngày giờ, làm Xuân xót xa vì thương chồng. Đông cũng bỏ không dự lễ như khi ở Pháp vì là xứ Hồi giáo, nhà thờ Công Giáo hầu như không có, trừ một vài nơi dành cho nhân viên ngoại giao của các sứ quán. Đông chờ qua năm, hy vọng được chuyển đi nơi khác, Xuân cũng sốt ruột không kém chồng, nhưng Đông nói cứ chờ chứ không muốn làm đơn xin đổi ngay, anh vẫn có ý mong được thăng thưởng thêm lần nữa trước khi đi. Hai năm trôi qua, cả hai vợ chồng đều mệt mỏi, nhất là Xuân, những lần gặp chồng nàng luôn thúc dục Đông xin đổi việc làm về Pháp, vợ chồng được gần nhau, Đông ậm ừ cho qua chuyện… rồi những ngày tháng chờ đợi trôi qua… Khi hai người có cơ hội ở gần nhau, họ không muốn nói với nhau một lời nào, không khí ngày càng trở nên nặng nề. Tám tháng qua, cả hai đều mệt mỏi, không giải quyết được vấn đề, cùng đồng ý lập đơn ly dị. Họ không biết phải chọn nghề nghiệp hay hôn nhân? Đời sống lứa đôi của họ thọ được ba mươi tháng, chưa đầy ba năm!

Maurice Shumann, một người Công Giáo, đã cho chúng ta thấy ông không kết hôn để dành hết cuộc đời làm chính trị, hoặc như nhạc sĩ nổi tiếng Camille Saint-Saens, kết hôn trễ, ở tuổi 40, có đời sống nội tâm và một đức tin vững vàng, nhưng vẫn không thể dung hòa những đòi hỏi trong đời sống nghệ thuật với đời sống gia đình.

Mỗi hoàn cảnh đều có những khác biệt, không phải chúng ta phải tránh làm một số nghề, nhưng khi lập gia đình, chúng ta cần đề cao cảnh giác là dành phần ưu tiên cho đời sống gia đình. "Công việc trước hết là để dành cho con người chứ không phải con người dành cho công việc" đức Gioan Phaolô II đã nhắc lại trong thông điệp nói về công việc của con người. Người nói tiếp "Chúng ta nên nhớ và xác tín rằng: gia đình là trọng tâm, để từ đó luật lệ xã hội và đạo đức được tạo thành"

Chúng ta có thể dung hòa để đưa đến một thỏa thuận nào đó, nhưng về phương diện trên, khi kết hôn, người Kitô hữu phải dành ưu tiên cho ơn gọi gia đình, mọi thứ khác chỉ là phần phụ thuộc. Ta sẽ nghĩ sao khi một linh mục bỏ thì giờ cầu nguyện để lo việc khác trong cộng đoàn? Người ta kể rằng các nữ tu ở dòng Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa, dù kiệt sức trong công việc phục vụ những bệnh nhân đang hấp hối trong thành phố Calcutta, Mẹ Têrêsa Calcutta đã không bớt thời giờ cầu nguyện mà mỗi ngày lại tăng thêm một giờ chầu Thánh Thể. Cũng như một kỹ nghệ gia Gia nã Đại đã hỏi người "Tôi có phải hiến tất cả của cải như trong Thánh Kinh dạy không? Mẹ Têrêsa trả lời: Ông không thể cho, những của này không thuộc về ông, ông chỉ là người quản lý chỉ để cai quản. Nhưng ông có thể cai quản theo cách của Chúa Giêsu, là làm theo thứ bậc tình yêu của ông: vì ông có gia đình, trên hết là vợ, rồi đến các con của ông, tiếp theo mới đến những nhân viên trong xí nghiệp" Lúc đó, vị kỹ nghệ gia mới ý thức là ông đã đảo ngược những bậc thang ưu tiên của đời sống. Ông đã đặt xí nghiệp lên trên hết, sau đó rất xa, mới đến vợ con.

Về phương diện này, vợ chồng Kitô hữu sống trong ơn gọi hôn nhân có thể sẽ gặp những điều đối nghịch trong một xã hội mà con người phải phụ thuộc nhiều vào đời sống nghề nghiệp, đôi khi họ phải hy sinh can đảm, bỏ qua những cơ hội thăng tiến trong việc làm. Nhất là cần ý thức rằng không gì tốt đẹp và cao cả bằng công việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Trong thư gửi các gia đình năm 1994 đức Gioan Phaolô II không ngần ngại nói rằng "Trong gia đình, chúng ta phải nhấn mạnh đến giá trị, tầm quan trọng những công việc phụ nữ làm trong gia đình, công việc này phải được nhìn nhận và đánh giá cách tối đa. Trách nhiệm của người đàn bà, sau khi sinh con, nuôi nấng, trông con rồi dậy dỗ đứa trẻ, nhất là khi chúng còn nhỏ, rất lớn và quan trọng không kém gì một công việc chuyên môn". Vì thế, để tìm ra ơn gọi hôn nhân, cả hai cũng phải khôn ngoan cân nhắc và nhất là chung lời cầu nguyện.

Có nhiều mặt phải giải quyết trong cuộc sống, thiết tưởng, nếu đôi lứa coi hôn nhân như sự đáp trả một ơn gọi thì cần cân nhắc lấy quyết định chọn đời sống gia đình.

Chúc Anh Chị trung thành với ơn Chúa và trọn đời hạnh phúc

C. Micheline Kim Chi
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/125054.htm

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

Gia Đình Việt Nam, Mảnh Đất Phì Nhiêu Cho Hạt Giống Tin Mừng


Dẫn nhập
Khi ấy, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng nhiều điều. Người nói: “Kìa người gieo giống ra đi gieo giống. Trong khi người ấy gieo thì có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá... Có những hạt rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13, 4-8).
Trong viễn cảnh một cuộc hội nhập văn hóa rộng lớn ở Á châu, cụ thể là tại vùng đất “con rồng cháu tiên” này, lời mời gọi gieo rắc hạt giống Tin mừng trở nên cấp thiết. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn “Ecclesia in Asia”, số 1, đã bày tỏ niềm hy vọng có được một mùa gặt bội thu tại cánh đồng màu mỡ  giàu chất tâm linh này.
Cánh đồng Á châu thật bao la bát ngát, bước chân người gieo giống còn phải lắm phen bôn ba bươn chải. Trong lúc đợi chờ cả cánh đồng ánh lên màu lúa mới, chúng ta trở về mảnh đất gia đình thật gần gũi thân quen, nơi đó chúng ta gieo vãi hạt giống Tin mừng. Thiết tưởng rằng việc làm này có thể góp thêm một chút gì đó cho việc hội nhập văn hoá và đặc biệt cho năm thánh hoá gia đình.
Gia đình chính là nền tảng vững chắc để xây dựng xã hội, xây dựng Giáo hội, là mảnh đất màu mỡ để hạt Tin mừng có thể nảy mầm, đâm rễ và sinh hoa kết trái. Tông huấn “Familiaris Consortio” đặc biệt quan tâm đến gia đình bởi bao mối nguy hiểm đang đe doạ làm cho gia đình bị suy sụp, phần vì người ta quan niệm tự do một cách lệch lạc, phần vì não trạng hưởng thụ đang bành trướng. Tông huấn Familiaris Consortio, số 6.
Nhiều gia đình đã biến chất, tha hoá và vong thân. Thánh hoá gia đình thiết nghĩ là làm sáng lên những giá trị truyền thống, những nét đẹp tinh thần và Tin mừng hóa những giá trị cao quý ấy. Tin mừng hóa không có nghĩa là thay thế những giá trị, mà là làm cho những giá trị đó sáng lên. Thiết tưởng công việc gieo rắc Tin mừng nên khởi đi từ việc phát hiện những điểm sáng đó.
I. Thăm dò vùng đất
1. Mảnh đất gia đình Việt Nam
Gia đình Việt Nam thuộc loại hình gia trưởng, quyền bính thường tập trung vào người cha, người đứng đầu trong gia đình. Cái mô hình gia trưởng ấy lại nằm gọn trong một lối sống có tổ chức theo lối làng xã và cộng đồng. Quyền lợi tập thể luôn được đề cao hơn quyền lợi cá nhân, cho dù đó là những việc riêng tư nhất. Trong lối sống cộng đồng ấy, người Việt Nam suốt đời quanh quẩn với lũy tre xanh, trong chiếc cổng làng khép kín. Mỗi gia đình lại là một thế giới riêng nữa, nhất là khi Nho giáo vào Việt Nam, những "định chế" ấy lại càng được củng cố một cách vững vàng hơn.
Do ảnh hưởng rất nhiều từ Nho giáo, người Việt Nam coi trọng sự bền vững của gia đình, với những tôn ti trật tự, với cung cách ứng xử theo mỗi bậc người. Theo đó, người Việt Nam có nét đặc trưng trong cách thức chào hỏi, xưng hô, giao tiếp ... mà những ngôn ngữ của các dân tộc khác dù văn minh cũng không có được. Linh mục F. Buzomi thuộc dòng Tên, quốc tịch Italia, một nhà truyền giáo đã đặt chân lên mảnh đất Việt Nam khá sớm vào ngày 18.1.1615, đã ghi lại một nhận xét rất chí lý rằng: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt Nam đã có một tổ chức rất cao. Người dân Việt Nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo”  Theo Nguyễn Hồng,“Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam”, Sài Gòn 1959, tr. 55.
Một trong những nét phong tục, hay có thể gọi tên khác là văn hóa hay tín ngưỡng của người Việt Nam là việc thờ cúng ông bà tổ tiên. Trong mỗi gia đình người Việt Nam, dù sang hay hèn, cũng dành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm hay lễ tết, nếu có của thì làm mâm cơm thịnh soạn cúng ông bà, nếu không có thì một bát cơm, một chén nước lạnh cũng xong. Quan trọng hơn hết vẫn là tấm lòng con cháu đối với ông bà. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đỗ đạt ... cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi sự việc để các ngài chứng giám. Nét văn hoá tâm linh này là một truyền thống quý báu của mỗi gia đình người Việt.
Văn hóa gia đình Việt Nam cũng yêu chuộng những gì là tình nghĩa hơn là lý sự: “một bồ cái lý không bằng một tý cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích xuề xòa dễ dãi “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải, “người là vàng, của là ngãi” hoặc “người làm ra của chứ của không làm ra người”; thích anh em bốn bể một nhà, “tứ hải giai huynh đệ”;... đặc biệt là tinh thần độ lượng, khoan dung, “đánh kẻ chạy đi ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái này là “thương người như thể thương thân”. Đến đây, ta thấy văn hoá Việt Nam, hay văn hoá gia đình Việt Nam đã có rất nhiều nét giao thoa với giá trị của Tin mừng. Những nét đẹp tinh thần này tạo nên các gia đình Việt Nam với phong cách đặc biệt, một phong cách rất Việt Nam.
Đối với người Việt Nam, gia đình là một giá trị hết sức thiêng liêng, nói như nhà thơ Chế Lan Viên:
“Khi ta ở đất là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Người Việt Nam vẫn nhớ mãi nơi chôn nhau cắt rốn; dù có xuôi ngược phương nào, ngày tết ngày tư bằng mọi cách cũng phải về với gia đình, dù đó chỉ là một mái nhà tranh. Đi sâu vào tìm hiểu gia đình, chúng ta thấy gia đình mang một ý nghĩa tuyệt vời đối với sự sinh trưởng và thành toàn của mỗi người trên cả lãnh vực văn hóa, xã hội, thể lý, tâm lý, và tâm linh nữa.
Gia đình, tự bản chất là một thực thể văn hóa. Chắc hẳn chúng ta đều công nhận rằng con người sống trong gia đình không chỉ đơn giản có mối quan hệ huyết thống, với chức năng sinh sản ra các thế hệ nối tiếp. Trước tiên gia đình phải là một tổ ấm, ở nơi đó con người trao đi và đón nhận những tình cảm vô tư nhất, linh thiêng nhất, cao cả nhất. Điều này không chỉ thể hiện nơi những người đang sống, mà còn cả với những người đã khuất. Nét văn hóa tâm linh trong mối quan hệ giữa các thế hệ huyết thống gia đình là mối dây bền chặt, vừa bí ẩn vừa linh thiêng. Cội nguồn của gia đình phát xuất từ mối dây thiêng liêng đó.
Gia đình là một môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống … để con người có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội. Một sự giáo dục toàn diện phải chú trọng đến cả tài và đức. Gia đình chính là nơi đào tạo căn bản nhất nền móng ban đầu để con người phát triển cái tài và nhân rộng lên cái đức sau này. Cái đức chính là sự thừa hưởng nền móng gia đình, hay có thể nói là kết quả giáo dục của gia đình.
Mỗi giai đoạn lịch sử, gia đình ứng với một mô hình khác nhau. Thời văn minh tiền sử, có lẽ không có khái niệm gia đình như chúng ta có hiện nay, con người lúc đó sống bầy đàn, lao động chủ yếu là hái lượm, hay nói cách khác là thiên nhiên ưu đãi và nuôi dưỡng họ. Sang đến thời văn  minh nông nghiệp, gia đình xuất hiện như một đơn vị sản xuất; nhưng đến thời văn minh công nghiệp, tính địa phương bị phá vỡ, mô hình gia đình hạt nhân xuất hiện; và rồi khi bước sang nền văn minh trí tuệ, thì mô hình gia đình hạt nhân này cũng sẽ bị phá vỡ. Tuy nhiên, dù là mô hình gia đình nào đi nữa, thì cũng chính cái nôi ấy con người được sinh ra, nuôi dưỡng và trưởng thành. Mái trường gia đình không phải chỉ giáo dục con người một sớm một chiều, nhưng rong ruổi theo bước con người suốt cuộc đời của họ. Những kỷ niệm, ký ức là một phần gia sản của con người mà họ chỉ tìm lại được nơi mái ấm gia đình của mình.
Hai chữ gia đình thật là thân thương, nơi đó con người hình thành cả một nhân cách sống. Trong bầu khí của tình làng nghĩa xóm, trong cái thân thương quen thuộc người ta thường gọi bằng hai tiếng “quê hương”, gia đình dạy con người về đạo lý, thế nào là yêu tổ quốc, quê hương, thế nào là “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”...
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen gentium” cũng cho chúng ta một nhận xét rất thâm thuý về gia đình và sứ  mạng của gia đình:
“Gia đình là môi trường hoạt động và là trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào tất cả các tổ chức của cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy. Nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái lòng tin và tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của nước Thiên Chúa và niềm trông cậy vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và lời chứng, gia đình Kitô giáo thuyết phục thế gian về tội lỗi đồng thời soi sáng cho những ai đang tìm kiếm chân lý” (LG số 35).
Một khi đã nhìn ra những nét đặc sắc và vị trí quan trọng của gia đình, chúng ta tìm hiểu xem đâu là mạch nước ngầm tạo nên mảnh đất gia đình phì nhiêu đó.
2. Mạch nước ngầm
Chúng ta có thể nhận thấy hai dòng chảy lớn tạo nên sức sống phong phú của mảnh đất gia đình, đó là tinh thần đại gia đình và tinh thần đạo hiếu trong mỗi gia đình người Việt.
a. Tinh thần đại gia đình
Gia đình truyền thống Việt Nam không sống riêng lẻ nhưng tập trung thành đại gia đình. Mỗi gia đình lớn này có nhiều thế hệ sống với nhau, thường là ba bốn thế hệ, tứ đại đồng đường: ông bà, cha mẹ, con cái và cháu chắt. Cha mẹ già không đem gởi vào nhà dưỡng lão, nhưng sống chung với con cái. Người Việt Nam quan niệm : “Một mẹ già bằng ba hàng dậu”, cha mẹ già không thể tiếp tục công việc đồng áng thì ở nhà giữ cháu cho con cái đi làm. Và như vậy cũng chẳng cần gởi con đi nhà trẻ, gia đình lúc nào cũng ấm cúng, tuổi thơ của con được ươm đầy ắp tiếng ầu ơ của bà, được trau dồi cái nhân cái nghĩa ngay từ  thuở chưa rời vành nôi.
Rồi khi con cái lớn lên, lập gia đình mới, cha mẹ lại cho miếng đất dựng lên căn nhà, thế là con cái lại xum vầy bên cha mẹ, lúc tắt lửa tối trời có mặt bên nhau. Cứ thế hệ này nối tiếp thế hệ kia tạo thành một dòng họ đông đúc. Mô hình gia đình xã hội nông thôn này còn được củng cố mạnh mẽ bằng tình làng nghĩa xóm, và mỗi đại gia đình lại còn có khu đất tổ, có nhà thờ họ (từ đường), có đất hương hỏa ... nên tình nghĩa đã đầy lại càng sâu nặng hơn.
Chính cái gia sản tinh thần này là chất keo nối kết tâm hồn người ta lại, để rồi ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một ... đi đâu cũng phải nhớ về” Trích trong bài thơ “Quê hương” của Đỗ Trung Quân..
b. Tinh thần đạo hiếu
Gia đình là cơ sở xã hội Việt Nam, sức mạnh của gia đình là chữ hiếu. Trong gia đình không tội gì nặng cho bằng tội bất hiếu. Con cái phải kính trọng và vâng lời cha mẹ. Luật nhà Lê trừng phạt những con cháu phản kháng lại ông bà, cha mẹ, cũng như những người vợ phạm những hành động như vậy đối với cha mẹ chồng. Điều 475 luật Hồng Đức thiết định rằng con cháu đánh ông bà thì phải lưu đày, thậm chí xử giảo. Con cháu phải nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ. Lòng hiếu thảo không cho phép con cháu thưa kiện ông bà hay cha mẹ của mình. Luật Gia Long định rằng con cái phải che dấu những lỗi lầm của cha mẹ, trừ những tội liên quan đến an ninh quốc gia. Tuy vậy con cái vẫn có quyền đối thoại, thưa lại với cha mẹ khi mệnh lệnh của các ngài quá đáng hoặc sai trái. X. Sđd, tr. 578.
Khi cha mẹ qua đời, lòng hiếu thảo càng phải được thể hiện sâu sắc hơn. Việc lo tang lễ, cúng giỗ cho người đã khuất là một nghĩa vụ thiêng liêng và là cách thể hiện chữ hiếu cụ thể nhất. Con cái phải để tang cha mẹ trong ba năm. Trong thời gian gia đình có tang chế, con cái phải tuyệt tối hoà thuận yêu thương nhau. Người ta cũng kiêng cữ không kết hôn trong thời gian gia đình có cha mẹ qua đời. Quả thực, chữ hiếu là sợi dây nối kết mọi người trong dòng họ.
Không chỉ ở Việt Nam, mà Á đông nói chung, chữ hiếu là nhân đức thiêng liêng nhất. Chẳng những đức hiếu hướng về tổ tiên, ông bà, cha mẹ, mà còn bao trùm mọi mối tương quan khác của con người trong xã hội. Theo Mạnh Tử, bổn phận đối với cha mẹ là nền tảng cho mọi bổn phận khác L. Cadière, Gia đình và tôn giáo ở Việt Nam, Huế, 1930, tr. 412..
Bên cạnh chữ hiếu, người Việt Nam cũng còn đề cao chữ trung nữa. Ca dao Việt Nam có câu:
“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu răn mình”.
Khi truyền giáo ở Việt Nam, cha Alexandre de Rhodes đã hội nhập hai đức tính này và làm nên một nền thần học “Tam Phụ”: ngoài người cha trong gia đình mà ai cũng kính trọng, thì còn người cha ngoài xã hội là vị vua mà mọi người phải trung tín, và đặc biệt trên trời còn có một người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa nữa. Trong cuốn “Phép giảng tám ngày”, cha viết: “Bây giờ, ta phải hay có ba đấng bề trên là ba cha, ta phải thờ ở đấng nào cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh ra thân xác cho ta, đấng giữa là vua chúa trị nước, đấng trên là đức Chúa trời đất, làm chúa thật trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mới được sống được ở”. A. De Rhodes, “Phép giảng tám ngày”, tủ sách đại kết, in lại theo bản gốc do Rôma xuất bản năm 1651, tr. 17.
Phải hiểu được chữ hiếu này, chúng ta mới thấy được việc thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam là thiêng liêng và cao quý biết bao. Tiếc thay nhiều người Kitô hữu Việt Nam đã trở nên xa lạ ngay với nhưng phong tục của quê hương xứ sở mình. Nhiều người nói rằng chúng ta vong thân cũng là có lý do của họ. Chẳng vậy nhà Nho Nguyễn Đình Chiểu đã cật lực phản đối việc một số người Việt Nam bỏ thờ cúng tổ tiên mà chạy theo một tôn giáo mới:
“Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ”.
Một khi hiểu được hạt giống mình gieo vãi, hiểu được đặc tính mảnh đất hạt giống sẽ sinh trưởng, thì việc gieo trồng sẽ hy vọng đạt được nhiều hoa trái.
II. Gieo trồng
1. Cải tạo đất
Mảnh đất gia đình Việt Nam màu mỡ, có nhiều điểm phù hợp với hạt giống Tin mừng; tuy nhiên, cũng còn nhiều điểm cần cải tạo, khôi phục. Việc làm trước tiên đó là:
a. Khôi phục dòng chảy
Như đã phân tích ở trên, dòng chảy ngầm làm cho mảnh đất gia đình phì nhiêu đó là tinh thần đại gia đình và chữ hiếu. So sánh gia đình Việt Nam hiện nay với gia đình Việt Nam truyền thống, chúng ta thấy có nhiều khác biệt. Nếu như ngày xưa người ta sống thành làng xã, suốt đời quanh quẩn với luỹ tre xanh, tính địa phương, cộng đồng, làng xã được đề cao; thì ngày nay người ta theo lối sống thành thị nhiều hơn. Mô hình gia đình truyền thống bị phá vỡ. Đại gia đình không còn nữa, không còn “tứ đại đồng đường”, thay vào đó là mô hình gia đình hạt nhân. Người ta không thể đưa cả ông bà, cha mẹ, con cái vào xí nhiệp, nhà máy. Lúc này mỗi cá nhân được tôn trọng chứ không phải là cộng đồng nữa. Những người già cũng mất dần chỗ đứng trong gia đình, họ phải sống trong những trại dưỡng lão chứ  ít khi còn là “một mẹ già bằng ba hàng dậu”.
Ở nông thôn cũng vậy, con cái sẽ không còn ở mãi với cha mẹ, khi lớn lên phần lớn chúng đến những thành phố, những khu công nghiệp để tìm kiếm việc làm. Gia đình không còn gói gọn nơi bờ dậu và luỹ tre xanh, mà là ngôi nhà toàn cầu, ngôi nhà thế giới.
Đó là chưa nói đến hệ quả của nền văn minh trí tuệ, người ta cho rằng ngay cả mô hình hạt nhân cũng bị phá vỡ. Rồi đây số người làm việc trong văn phòng, lo dịch vụ vượt hơn số người làm trong nhà máy. Người ta dùng nhiều máy móc, phương tiện tối tân mà trước kia không hề nghe nói tới, nào là máy vi tính, thuốc ngừa thai ... và vấn đề văn hoá, vấn đề đạo đức gia đình được đặt lại.
Trong xã hội ngày nay, gia đình phải đối đầu với nhiều vấn nạn mới nữa. Nào là tệ nạn ma tuý, nạn dịch AIDS, bạo lực trong gia đình, con cái phải đối cha mẹ rồi bỏ nhà đi hoang ... Những giá trị truyền thống của gia đình phải được đặt lại, hay đúng hơn cần được khôi phục. Giới trẻ ngày nay ít ai còn hiểu thế nào là “tam cương, ngũ thường” (nhiều người cho đó là lỗi thời, lạc hậu)... thay vào đó là lối sống buông thả tự do, tất cả là hưởng thụ, là nguyên tắc khoái lạc chi phối. Do chủ nghĩa cá nhân được đề cao, nên gia đình lại bị coi nhẹ. Nhiều gia đình chỉ còn là quán trọ, là chỗ dừng chân cho những lúc tâm hồn quá mệt mỏi ê chề.
Việc khơi lại nguồn mạch lúc này là cần thiết. Cần làm sống lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình, Tin mừng hoá cần bắt đầu bằng những việc làm cụ thể đó.
Bước kế tiếp trong việc cải tạo lại mảnh đất gia đình, thiết nghĩ phải là:
b. Gạn đục khơi trong
Không phải nét tuyền thống nào của gia đình cũng đều là quý. Cần phải có sự chọn lựa thanh lọc. Nếu như nét truyền thống của gia đình Việt Nam là gia trưởng, thì nhiều khi tính gia trưởng này lại phát triển thái quá, quá khích, tạo nên một cung cách trịch thượng hay áp đặt trong gia đình. Nhiều khi người cha không biết lắng nghe mà chỉ biết ra lệnh, điều gì trái ý mình thì la mắng, đánh đập ... Trong bối cảnh này mà chúng ta rao giảng Thiên Chúa là Cha, chắc hẳn sẽ gặp không ít trở ngại, và Thiên Chúa sẽ không mấy được thiện cảm.
Lật lại trang sử Việt Nam từ thế kỷ X – XIX, ta thấy đây là thời kỳ chế độ phong kiến đè bẹp con người, đặc biệt là đối với phụ nữ. Chế độ này có cả một hệ thống hoàn chỉnh tinh vi về lý luận cũng như thực tiễn để kìm hãm, áp bức phụ nữ. Về thể chế gia đình, quyền tập trung vào người đàn ông gia trưởng, người phụ nữ bị trói buộc trong tôn pháp và lễ giáo. Điều này được ghi rõ trong luật Hồng Đức và nhất là trong luật Gia Long. Người phụ nữ bị cấm cửa, không được học hành, và dĩ nhiên không được mở mang trí tuệ. Điều này đã hạn chế rất nhiều khả năng cống hiến của người nữ. Họ bị ràng buộc về cả tinh thần lẫn vật chất, dẫn đến một sự chêng lệnh, bất công rất lớn trong gia đình và xã hội.
Lại còn bao hủ tục về ma chay cưới hỏi nữa cũng kiềm tỏa sự tự do của con người. Nếu như Tin mừng là quà tặng sự sống, thì những gì là bất công, là trói buộc con người cần phải được tháo cởi. Do vậy việc gạn lọc những giá trị trong truyền thống của gia đình Việt Nam cũng là một việc làm cấp thiết để hạt Tin mừng không bị cỏ dại lấn át.
Sau khi đã khơi lại dòng chảy là những truyền thống tốt đẹp, đồng thời chọn lựa những nét tinh tuý và gạn lọc truyền thống đó, chúng ta làm cho những giá trị của Tin mừng được sáng lên nơi mảnh đất gia đình thân thương này.
2. Gieo trồng
Một quan niệm mới trong việc rao giảng Tin mừng hôm nay là làm sáng lên những nét tinh tuý đã tiềm tàng sẵn trong mỗi nền văn hóa. Đối với môi trường gia đình Việt Nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình cụ thể này. Theo kinh nghiệm của những người gieo trồng, thì yếu tố thời vụ cũng góp phần không nhỏ cho mùa gặt bội thu.
a. Đúng thời vụ
Yếu tố “thời vụ” chúng ta bàn ở đây là “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Hạt giống Tin mừng đã sẵn sàng, môi trường gia đình đã chuẩn bị xong, chỉ còn lại yếu tố là lòng người có khao khát đón nhận hay không mà thôi.
Như chúng ta thấy, người Việt Nam rất dễ cởi mở để đón nhận những tôn giáo khác. Bằng chứng cụ thể là sự phát triển Tam giáo ở Việt Nam. Hơn thế nữa, hơn lúc nào hết con người thời nay khao khát tâm linh, một cơn khát tìm về với cõi vô biên, thanh tịnh. Hãy nhìn những cung cách cúng vái, thực hành tín ngưỡng của phần đông dân chúng ta có thể cảm được phần nào. Giáo hội nhận thấy rằng: “Trong lòng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á châu có một cơn khát “nước hằng sống” (X. Ga 4, 10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ có mình Chúa Giêsu Cứu Thế mới có thể thoả mãn đầy đủ”. Tông huấn Ecclesia in Asia, số 18.Phải chăng đây chính là “thời vụ”, là yếu tố “nhân hòa” để hạt Tin mừng có thể đâm rễ, trổ bông? Với tinh thần lạc quan, chúng ta có thể thấy rằng hạt giống đã rơi vào đất tốt.
b. Hạt giống rơi vào đất tốt
Gia đình Việt Nam với những yếu tố như đã khai triển ở trên, thì quả thực là mảnh đất tốt cho Tin mừng phát triển. Nếu yếu tố đại gia đình là nét truyền thống quý báu mà người Việt trân trọng, thì Tin mừng loan báo một Nước Thiên Chúa phổ quát, mọi người là anh em; nếu đạo hiếu là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt trong gia đình lại, đặc biệt qua việc thờ kính tổ tiên, thì Tin mừng loan báo cho mọi người biết họ có một Cha trên trời, và họ phải hết lòng tôn kính hiếu thảo; nếu tinh thần gia đình là yêu thương tương trợ lẫn nhau, thì Tin mừng có dạy điều gì khác hơn là “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; và nếu như  tinh thần gia đình người Việt Nam là quý yêu sự sống, thích sự bình dị, và sống chan hoà, thì Tin mừng cũng dạy chúng ta: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), và “Anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”... Như  vậy Tin mừng không dạy điều gì mới mẻ, mà chỉ làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hóa gia đình Việt Nam. Có nét mới mẻ chăng là mặc cho những giá trị văn hóa ấy một chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ. Tin mừng không chỉ thoả mãn cho con người sức sống thể lý, hạnh phúc chóng qua, mà còn hứa ban cho con người sự sống siêu nhiên, hạnh phúc vĩnh cửu.
Như vậy rao giảng mà như chẳng rao giảng gì, nhưng lại là rao giảng hữu hiệu. Điều quan trọng là biết cho người khác cái gì, cho như thế nào và cho lúc nào. Yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” vẫn là điều quan trọng cần quan tâm.
Kết luận
Tục ngữ Việt Nam ta có câu: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Đây là bốn yếu tố quan trọng làm nên một mùa gặt nặng hạt. Xin tạm làm một phép so sánh loại suy rằng: nước : chính là yếu tố truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam; phân: chính là sự thúc đẩy làm sáng lên những giá trị truyền thống ấy; cần : chính là sự dấn thân, đời sống chứng tá, đặc biệt là tác động của Chúa Thánh Thần; và giống : chính là hạt giống Tin mừng, là đạo lý Chúa Kitô. Kết hợp bốn yếu tố này chúng ta hy vọng có một mùa gặt với niềm vui rạng rỡ của những tay thợ vai nặng gánh lúa vàng. Hy vọng bộ mặt gia đình Việt Nam sẽ được Tin mừng hóa, sẽ sáng ngời không chỉ bởi vì những giá trị cao đẹp của truyền thống, nhưng ánh lên ánh sáng của Tin mừng đích thực, một Tin mừng sống động đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Quốc Văn, OP.
Thư  mục:
1 – Công đồng Vat. II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium.
2 – Đức Gioan Phaolô II , Tông huấn về gia đình, Familiaris Consortio.
3 - Đức Gioan Phaolô II , Tông huấn hậu Thượng hội đồng Giám mục Á châu, Eccléia in Asia.
4 – Tọa đàm một số vấn đề về văn hóa Công giáo Việt Nam, Tòa TGM Huế, năm 2000.
5 – Nguyễn Chính Kết, Thích ứng và Hội nhập văn hóa trong truyền giáo. TP. HCM, 1998.
6 – Nguyễn Văn Huyên, Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 2. Hà Nội, KHXH, 1996.
7 – L. Cardière, Gia đình và tôn giáo ở Việt Nam. Huế, 1930.
8 – A. De Rohdé, Phép giảng tám ngày, Tủ sách Đại kết, In theo bản gốc Rôma, xuất bản 1651.
9 – Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam. Sài Gòn, 1959.
10 – D. S. Amalorpavadass, Gospeland Culture, India 1985.
Nguồn: http://www.ubmvgiadinh.org/article/gia-%C4%91%C3%ACnh-vi%E1%BB%87t-nam-m%E1%BA%A3nh-%C4%91%E1%BA%A5t-ph%C3%AC-nhi%C3%AAu-cho-h%E1%BA%A1t-gi%E1%BB%91ng-tin-m%E1%BB%ABng

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014

Lễ Thành Hôn: Thu Trang - Mạnh Cường

Đại gia đình NGUYỄN TỘC
chúc mừng lễ thành hôn
của Têrêsa Nguyễn Thị Thu Trang và Antôn Thiều Mạnh Cường
(Trang là con của Ông Quang - Bà Nhung
và là chắt thuộc chi  Ông Nghiêm - Bà Phố)



Tập san “HỘI THÁNH TẠI GIA”- Số 1 - Ngày 20/4/2014



GIỚI THIỆU TẬP SAN “HỘI THÁNH TẠI GIA”
của Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri, Giám mục Đà Nẵng
Chủ tịch Ủy ban Mục vụ Gia đình thuộc HĐGMVN

Gia đình đang là bận tâm hàng đầu của Hội Thánh trong thế giới hôm nay. Sự tồn vong của gia đình sẽ định hình cho tương lai thế giới, như khẳng định của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn về Gia đình: “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình” (FC 86). Đây là mục đích của Mục vụ Gia đình.
Mục vụ Gia đình không chỉ dừng lại ở những đoàn thể phong trào hay các lớp giáo lý hôn nhân, nhưng sự chăm sóc của Giáo Hội là mẹ hiền cần phải đến được với từng gia đình: những người ông người bà, người cha người mẹ, những đứa con, những gia đình đơn thân hay mồ côi, những gia đình trẻ, những gia đình bất hòa, ly tán… Nhưng trước hết, phải giúp cho từng thành viên trong mỗi gia đình biết chăm sóc nhau phần hồn phần xác như một “Hội Thánh Tại Gia”.
Hình ảnh gia đình như một Hội Thánh thu nhỏ đã được nói đến từ rất lâu trong Giáo Hội. Thánh Giám mục Augustinô đã xác quyết: “Gia đình là một Giáo Hội thu nhỏ, tại đây Chúa Giê-su tiếp tục hiện diện và sống động”(Bài giảng số XXIX). Đặc biệt, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, với những cảm nghiệm và xác tín sâu sắc, Ngài đã nói: “…Gia đình Kitô hữu có thể và phải được gọi là Hội Thánh TạiGia” (FC 21).
Sứ vụ của Hội Thánh là truyền giáo, mỗi gia đình như là “Hội Thánh Tại Gia” cũng hân hạnh chia sẻ sứ mạng này. “Gia đình có bổn phận cộng tác với Giáo Hội trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Tương lai của việc loan báo Tin Mừng nằm trong tay của gia đình là Giáo Hội tại gia” (FC 52).
Bắt đầu từ tháng 5 trong Năm Tân Phúc-âm-hóa Gia đình 2014 này, Ủy Ban Mục vụ Gia đình thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam thân ái gửi đến từng gia đình Công giáo Việt Nam mấy trang tư liệu thật gọn nhẹ này, là nỗ lực của Ban Mục vụ Gia đình các Giáo phận và Ban Nghiên huấn thuộc UBMVGĐ/HĐGMVN, để mỗi gia đình hằng ngày có thể cùng đọc, cùng suy, cùng cầu nguyện, cùng sống và nhất là cùng loan báo Tin Mừng. Những trang này mang tên là “Hội Thánh Tại Gia”, được gửi đến Ban Mục vụ Gia đình các Giáo phận, từ đó sẽ chuyển đến các giáo xứ từ ngày 15-20 mỗi tháng, để kịp dùng cho tháng kế tiếp.
Ước mong cố gắng nhỏ bé này sẽ được các mục tử, các giáo xứ và cộng đoàn đón nhận và rộng rãi phổ biến đến từng gia đình, theo hình thức nào có thể mang lại hiệu quả cao nhất. Chúng tôi cũng ước mong được đón nhận ý kiến và sự cộng tác nhiệt thành của mọi người, để tập san “Hội Thánh Tại Gia” này chóng được ấn hành cách chuyên nghiệp, với nội dung phong phú và được phổ biến rộng rãi hơn.
Nguyện Đấng Phục Sinh hiện diện đồng hành cùng mỗi gia đình. Cầu xin Thánh Gia chúc lành.
Đà Nẵng, Lễ Lá ngày 13 tháng 4 năm 2014.

* GIA ĐÌNH HỌC HỎI:
1. Hội thánh tại gia là gì ?
Hội thánh tại gia là tên mà Công đồng Vatican II gọi các gia đình ki-tô hữu. Vì cũng như Hội Thánh, mỗi gia đình công giáo phải trở nên cộng đoàn cầu nguyện, sống yêu thương hợp nhất, và hăng say loan báo Tin Mừng.
2. Phúc Âm hóa là gì ?
Phúc Âm hóa là nỗ lực dẫn mọi người đến gặp gỡ Đức Giêsu Kitô, trong sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, nhờ đó gặp gỡ Chúa Cha, để đời sống được biến đổi theo tinh thần Phúc Âm.
3. Tân Phúc Âm hóa là gì ?  
Tân Phúc Âm hóa là đổi mới việc rao giảng Tin Mừng, “mới trong lòng nhiệt thành, trong phương pháp, và trong cách diễn tả”…
4. Vì sao phải quan tâm đặc biệt đến việc Tân Phúc Âm hóa gia đình?
Vì gia đình là “nôi sự sống và tình yêu”, là trường học tự nhiên và căn bản, là hội thánh tại gia, nên việc Tân Phúc Âm hóa phải được bắt đầu từ mỗi gia đình.
5. Đâu là những việc phải làm để tân Phúc Âm Hóa gia đình?
Phải xây dựng gia đình thành cộng đoàn :
1. Cầu nguyện.          2. Sống hợp nhất yêu thương.
3. Phục vụ sự sống.   4. Hăng say loan báo Tin Mừng.
(Tài liệu GP. Cần Thơ)
***
 “Phước thật cho những ai được Thiên Chúa cho sinh ra trong một gia đình tốt và thánh thiện”.(Lamartine)

Tháng 05/2014

Gia đình :

CỘNG ĐOÀN ĐỐI THOẠI

Lời Chúa“Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”  (Mt 11,29). X. Ep 5, 21-33.
Ý cầu nguyện: Xin cho cả gia đình yêu thương nhau, biết cởi mở chia sẻ, tâm sự để ngày càng hiểu biết thông cảm nhau hơn, nên một cộng đoàn đối thoại với Chúa, với nhau, với mọi người.
Bài ca ý lực: Tôi theo một người (Lời Cho Cuộc Sống (tr.100))

1. Gia đình là cộng đoàn đối thoại với Thiên Chúa

- Để có thể tham dự vào đời sống và sứ mạng của Hội Thánh, gia đình vốn là hội thánh tại gia trước hết phải trở thành cộng đoàn đối thoại với Thiên Chúa nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô. Thật vậy, để là hội thánh và thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng và phục vụ con người, gia đình trước hết phải được kết hợp mật thiết với Đức Kitô như cành nho gắn kết với cây nho, để nhờ đó mà được múc lấy sức sống thần linh và từ đó hòa nhập vào Hội Thánh dân tư tế.  Được bén rễ và dưỡng nuôi từ bí tích Hôn phối, gia đình không ngừng được sống nhờ Chúa Giêsu, và được Người mời gọi và lôi cuốn vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa qua đời sống bí tích, qua việc dâng hiến đời mình và nhờ cầu nguyện.[1] Khi ấy gia đình mới là hình ảnh và làm cho sự Hiệp thông vô hình của Ba Ngôi thần linh thành hiện thực lịch sử.

2. Sự khác biệt trong Gia đình

- Đôi bạn, là những nhân vật chủ chốt vì gia đình dựa trên nền tảng hôn phối của họ, rất khác nhau : về giới tính, tính tình, tính cách, về văn hóa, có thể khác cả về tôn giáo tín ngưỡng. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, đôi bạn gặp gỡ rồi yêu nhau và muốn xây dựng gia đình với nhau thường có nguồn gốc văn hóa, tín ngưỡng, ngôn ngữ, sắc tộc ... khác nhau.
a. Khác biệt về văn hóa: văn hóa khác biệt do nguồn gốc địa phương, ngôn ngữ, sắc tộc khác biệt, hoặc trình độ học thức khác biệt. Khác biệt có thể gây hiểu lầm, sinh ra căng thẳng xung đột khi sống chung. Không hiểu biết những hành vi thuộc đặc thù văn hóa của tha nhân nhưng đồng thời ta thường vẫn có những ý nghĩ, xét đoán, và phản ứng theo những ý nghĩ, định kiến của riêng ta, làm sai lệch tầm nhìn, và dễ tạo nên thương tổn cho nhau. Vì thế, mọi người cần tìm hiểu qua đối thoại chân thành, cởi mở, tin tưởng và kính trọng nhau. Không được xem văn hóa này cao trọng hơn còn văn hóa kia thấp kém hơn, vì mọi văn hóa là một phiên bản khác biệt của một văn hóa nhân loại chung và nhân dạng các nền văn hóa cũng không ngừng tương tác và thay đổi. Điều quan trọng không phải là bỏ đi một văn hóa để đón nhận một văn hóa khác, nhưng là: sự khác biệt làm cho nhau thêm phong phú để cùng xây dựng một điều gì mới mẻ.
«Này anh, điều anh khác với tôi không làm tổn hại tôi nhưng làm tôi thêm phong phú.» (Antoine de Saint-Exupéry)
b. Khác biệt về tôn giáo: Đời sống chung thân mật trong tình yêu thương của gia đình cũng có thể là một cuộc đối thoại liên tôn giữa những thành viên khác tín ngưỡng, tôn giáo trong gia đình, hoặc với các gia đình khác trong gia tộc và trong cộng đồng xã hội. Một nguyên tắc phải được tôn trọng: “trong lãnh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm”[2]. Đối thoại còn là gì hơn nữa chứ không chỉ đơn giản là sự khoan dung giữa những người khác biệt tôn giáo, tín ngưỡng. Đối với người Kitô hữu, tin rằng Đức Giêsu Kitô là «Sự thật» (Ga 14,6) có nghĩa là chấp nhận cùng đồng hành với tha nhân, nhất là với “thân nhân” của mình, lại cũng là người khác niềm tin với mình để có thể hiểu biết chính xác hơn, sâu xa hơn “sự thật” này là gì. Đối thoại liên tôn trong gia đình thường đòi hỏi sự kiên nhẫn và bền bĩ có thể cho đến cuối cuộc đời, cố gắng “hợp nhất trong những điều thiết yếu, tự do trong những điểm còn nghi ngờ, bác ái trong tất cả mọi sự”[3].
c. Khác biệt về giới tính: “Mỗi người, nam cũng như nữ, phải nhận biết và chấp nhận căn tính giới tính của mình. Sự khác biệt và bổ sung cho nhau về thể xác, tinh thần và tâm linh hướng đến lợi ích của hôn nhân và phát triển đời sống gia đình. Sự hòa hợp của đôi vợ chồng và của xã hội tùy thuộc phần nào vào việc hai bên nam nữ bổ túc, đáp ứng và nâng đỡ lẫn nhau”[4].

3. Gia đình là cộng đoàn đối thoại với nhau

- Gia đình là cộng đoàn sự sống thân mật và yêu thương hợp nhất giữa các thành viên khác biệt: vợ với chồng, cha mẹ với con cái, ông bà với cháu chắt, anh chị em, dâu và rể. Trong đó sự hợp nhất giữa vợ chồng là nền tảng rất quan trọng cho sự hợp nhất trong gia đình, trong các tương quan còn lại trong gia đình. “Thuận  vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”. Yêu thương là hợp nhất trong khác biệt. Để được như thế họ phải hiểu biết và tôn trọng những cái giống nhau và cả những điều khác nhau, mà trước hết là phải đối thoại với nhau cởi mở và chân thành trong tin tưởng và yêu thương. Muốn thế, vợ chồng phải dành thời gian riêng cho nhau, dành cho nhau những lời nói nhẹ nhàng, âu yếm, những cử chỉ trân trọng, lịch sự, như ông bà ta khi xưa nói: “vợ chồng tương kính như tân”.
- Cộng đoàn đối thoại còn là cộng đoàn biết chia sẻ những việc cụ thể chung của gia đình:
1. Ăn ở : chia sẻ việc nhà cửa, bếp núc, bàn bạc trong tương quan với cha mẹ anh em hai bên nội ngoại, xóm giềng, chịu chung trách nhiệm mọi việc.
2. Tài chánh : Chia sẻ được mọi chi và tiêu: có thể công khai những món tiền lớn và tiền nhỏ.
3. Việc con cái: cùng đón nhận đứa con chào đời, chia sẻ việc nuôi và cùng nhau giáo dục con cái, trao đổi thống nhất việc giáo dục con cái, nhất là cùng dạy con biết Chúa.
4. Chuyện vợ chồng : Có thể chia sẻ thực lòng với nhau những giai đoạn khó khăn và nhu cầu thầm kín. Học phương pháp kế hoạch gia đình theo tự nhiên, trước hết phải là kĩ năng giúp vợ chồng sống hạnh phúc nhờ hiểu để biết chia sẻ. Tiết dục định kỳ cũng như những phương pháp điều hòa sinh sản đặt nền tảng trên việc tự quan sát và sử dụng những thời gian không thể thụ thai: đều phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan của luân lí. Những phương pháp này tôn trọng thân thể của vợ chồng,khuyến khích họ âu yếm và giúp nhau hướng đến tự do chân chính[5].
5. Cầu nguyện : Đọc kinh chung là có thể thổ lộ với Chúa cùng tâm tư. Nền tảng của hiệp thông vợ chồng chính là Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể.
6. Không giấu nhau chuyện gì : thống nhất với nhau từ đầu, điều gì làm mà không dám nói cho nhau biết tập ý thức không làm.

Câu hỏi chia sẻ và thảo luận

  1. Gia đình tôi có Chúa hiện diện trong đối thoại gia đình hay không?
  2. Giữa vợ chồng, giữa cha/mẹ và con còn có điều gì chưa thể chia sẻ, trao đổi, tâm sự không?
  3. Khi đối thoại chúng tôi có tôn trọng sự dị biệt chính đáng của nhau, có thực sự quan tâm muốn chia sẻ và nâng đỡ nhau vì yêu thương hay không?

Ơn gọi hôn nhân trong chương trình của Thiên Chúa

Lời Chúa: Thiên Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Ngài tạo thành họ có nam có nữ (St 1, 28)… Thiên Chúa phán: “Đàn ông ở một mình không tốt, Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó”. Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Ngài lấy một xương sườn của ông và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền nói: “Bây giờ xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra”. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể (St 2,7.18.21-24).
1-Tình yêu là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của con người
Qua mầu nhiệm Ba Ngôi, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu (x. 1Ga 4, 8.16). Vì yêu, Thiên Chúa đã tác tạo con người giống hình ảnh mình và mời gọi con người sống yêu thương. Thế nên, khi yêu thương, con người thể hiện đúng bản chất của mình là hình ảnh Thiên Chúa, được dựng nên để sống yêu thương và hiệp thông với nhau. Tình yêu là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của con người (x. GLHT 1604). Tình yêu là nền móng xây dựng các mối tương quan làm nên ý nghĩa và hạnh phúc đích thực của con người. Hôn nhân và gia đình là trường dạy yêu thương cơ bản và không thể thay thế của con người.
2-Ơn gọi của bậc sống Hôn Nhân
Khi tạo dựng con người có nam có nữ, Thiên Chúa muốn họ sống cho nhau, bổ túc cho nhau và hiệp thông với nhau trong tình yêu. Và duy chỉ trong hôn nhân, Thiên Chúa kết hợp hai người nam nữ “thành một xương một thịt” để có thể lưu truyền sự sống qua muôn thế hệ. Khi lưu truyền sự sống cho dòng dõi mình với tư cách là vợ chồng và cha mẹ, người nam và người nữ cọng tác một cách độc đáo vào công trình của Đấng Sáng Tạo (x. GLHTCG 371-372). 
Như vậy, chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân: qua việc tạo thành loài người có nam có nữ và kết hợp họ thành một xương một thịt với lệnh truyền “sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6), Thiên Chúa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng (x. GS 48,1). Như vậy, hôn nhân không phải là một định chế thuần túy nhân loại. Đằng sau những khác biệt đến từ các nền văn hóa, các tôn giáo hay các cơ cấu xã hội hay những biến đổi qua các thời đại, chúng ta vẫn nhận ra những yếu tố thường tồn làm nên sự cao quý của hôn nhân và gia đình: như tình yêu vợ chồng chung thủy, tình phụ tử mẫu tử cao dày của bậc làm cha mẹ hay lòng hiếu thảo của con cái (x. GLHTCG 1603).
Hơn bao giờ hết, trong bối cảnh đầy thách đố của hôn nhân và gia đình hôm nay, người kitô hữu cần phải nhận ra Ơn Gọi Bậc của sống Hôn Nhân để có thể sống chung thủy và giúp nhau chu toàn sứ mạng mà Chúa đã trao phó.

GHI NHỚ :

Hôn nhân không phải là một định chế thuần túy nhân loại. Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng (x. GS 48,1) mà mọi thành viên trong gia đình phải tuân giữ để bảo đảm hạnh phúc đích thực của gia đình.

QUYẾT TÂM

Noi gương Thánh Gia Thất, luôn tìm kiếm và thực thi Thánh Ý Chúa trong mọi biến cố của gia đình để trung thành bảo vệ sự sống trong đời sống hôn nhân.
(Tài liệu MVGĐ TGP Huế)
***
GIA ĐÌNH NGHE LỜI ĐỨC THÁNH CHA

Xin chào Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay chúng ta kết thúc loạt bài giáo lý về các Bí Tích bằng bài về Hôn Phối.
Bí tích này dẫn chúng ta tới tâm điểm của dự án Thiên Chúa, đó là một dự án giao ước với dân Ngài, với tất cả chúng ta, một dự án hiệp thông. Mở đầu Sách Khởi Nguyên, cuốn Sách đầu tiên của Thánh Kinh, để hoàn tất trình thuật tạo dựng, sách này kể rằng: "Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài, theo hình ảnh của mình Thiên Chúa đã dựng nên họ; Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ... Bởi thế, người nam lìa bỏ cha mẹ mình mà gắn bó với vợ của mình, và họ trở nên một xác thịt" (1,27; 2,24). 
Đôi phối ngẫu là hình ảnh của Thiên Chúa: con người nam và con người nữ, chẳng phải duy chỉ người nam thôi, chẳng phải duy chỉ người nữ thôi, mà là cả hai. Đó là hình ảnh Thiên Chúa: tình yêu, giao ước của Thiên Chúa với chúng ta được tiêu biểu nơi giao ước giữa nam và nữ. Điều này thật là đẹp!
Chúng ta được dựng nên để yêu thương, để phản ảnh Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Và nơi mối hiệp nhất phối ngẫu, người nam và người nữ hiện thực hóa ơn gọi này, ở chỗ hỗ tương lẫn nhau và hiệp thông với nhau bằng một đời sống trọn vẹn và vĩnh viễn.
Khi người nam và người nữ cử hành Bí Tích Hôn Phối thì có thể nói Thiên Chúa được "phản ảnh" nơi họ, Ngài in ấn nơi họ những tính chất của Ngài cùng với đặc tính bất khả xóa nhòa của tình yêu Ngài. Hôn nhân là hình ảnh về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thật vậy, Thiên Chúa cũng hiệp thông nữa, đó là Ba Ngôi Vị Cha, Con và Thánh Thần luôn luôn và vĩnh viễn sống trong mối hiệp nhất trọn hảo. Đấy thực sự là mầu nhiệm của Hôn Nhân, ở chỗ Thiên Chúa làm cho đôi phối ngẫu trở thành một cuộc sống duy nhất. Thánh Kinh sử dụng một lời diễn tả mạnh mẽ là "một xác thịt", một diễn tả cho thấy mối hiệp nhất rất thân mật giữa người nam và người nữ nơi đời sống hôn nhân. 
Mầu nhiệm của hôn nhân chính là ở chỗ tình yêu của Thiên Chúa được phản ảnh nơi đôi nam nữ quyết định sống chung với nhau. Bởi thế người nam lìa bỏ gia đình của mình, lìa bỏ gia đình cha mẹ mình mà sống với vợ mình, và liên hợp bản thân mình với vợ một cách mãnh liệt đến độ cả hai trở nên một xác thịt như Thánh Kinh nói.
Trong Thư gửi Giáo Đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự kiện về một mầu nhiệm rất cao cả phản ảnh nơi thành phần phối ngẫu Kitô hữu, đó là mối liên hệ Chúa Kitô thiết lập với Giáo Hội, một mối liên hệ phối ngẫu (5,21-33).
Giáo Hội là Hôn Thê của Chúa Kitô. Mối liên hệ là thế. Tức là Hôn Nhân đáp ứng một ơn gọi đặc biệt và cần phải được coi như là một thứ thánh hiến (cf. Gaudium et spes, 48; Familiaris consortio, 56).
Nó là một thứ thánh hiến ở chỗ người nam và người nữ được thánh hiến trong tình yêu của họ. Bởi Bí Tích này, đôi phối ngẫu thực sự được đầu tư vào một sứ vụ thực sự và thích đáng, để họ có thể hiển hiện hóa, từ những gì tầm thường, tình yêu thương Chúa Kitô tỏ ra với Giáo Hội của Người, tiếp tục cống hiến sự sống của Người cho Giáo Hội, một cách trung thành và phục vụ.
Thật là một dự án kỳ diệu được chất chứa nơi Bí Tích Hôn Phối! Và dự án này được thể hiện một cách đơn thường cũng như một cách mong manh nơi thân phận con người. Chúng ta biết rõ là có biết bao nhiêu là khó khăn và thử thách xẩy ra nơi đời sống vợ chồng.
Điều quan trọng đó là làm sao giữ được mối liên hệ với Thiên Chúa, Đấng là nền tảng của mối liên hệ phối ngẫu. Mối liên hệ thực sự này bao giờ cũng là mối liên hệ với Chúa. Khi gia đình cầu nguyện thì mối liên hệ ấy được bảo tồn.
Khi người chồng cầu nguyện cho người vợ và người vợ cầu nguyện cho người chồng, thì mối liên hệ ấy trở nên vững mạnh; người này cầu nguyện cho người kia.
Đời sống hôn nhân thật sự là có nhiều thứ khó khăn, nhiều lắm, nào là việc làm, nào là bị thiếu thốn tiền bạc, nào là con cái có vấn đề - rất ư là nhiều khốn khó. Nên rất thường xẩy ra chuyện vợ chồng trở nên lo lắng và cải vã nhau. Họ cãi nhau - bao giờ cũng thế thôi nơi đời sống hôn nhân - đôi khi đến độ đĩa bay chén bay. Tuy nhiên, chúng ta không được vì thế mà tỏ ra buồn thảm; thân phận của con người là thế đó.
Cái bí mật đó là tình yêu mạnh hơn cả những lúc cãi nhau nữa, nên tôi bao giờ cũng khuyên nhủ các cặp vợ chồng rằng: Đừng bao giờ kết thúc ngày sống khi anh chị cãi nhau mà chưa làm hòa với nhau. Hãy luôn luôn làm như thế! Thì không cần phải gọi Liên Hiệp Quốc tới nhà của mình để giải hòa. Một cử chỉ nho nhỏ nào đó, một ân cần chăm sóc nào đó, một tiếng chào thôi cũng đủ! Thế rồi sang ngày mai - và ngày mai người ta bắt đầu lại. Đó là cuộc sống; cần phải tiến bước như thế, cần phải tiến tới bằng tấm lòng can đảm muốn sống với nhau. Đó là những gì cao cả, những gì đẹp đẽ!
Đời sống hôn nhân là một thứ gì đẹp nhất và chúng ta cần phải luôn canh chừng nó, bảo vệ con cái. 
Ở quảng trường này có những lần tôi đã từng nói một điều có thể giúp ích nhiều cho đời sống hôn nhân. Có ba lời luôn luôn cần phải nói, ba lời cần phải nói trong gia đình, đó là xin làm ơn - please/permesso, xin cám ơn - thank you/grazie, xin lỗi - sorry/scusa, ba lời nói có mãnh lực.  
 Xin làm ơn, để tránh xâm phạm vào đời sống của người phối ngẫu. Xin làm ơn, thế nhưng lời nói này anh chị em thấy sao? Xin làm ơn cho tôi. 
Xin cám ơn để cám ơn người bạn đời của mình: xin cám ơn anh/em về điều anh/em làm cho anh/em, xin cám ơn anh/em về điều đó nhé. Đẹp đẽ biết bao khi ngỏ lời cám ơn!     
Và khi tất cả chúng ta gây ra lầm lỗi, thì một lời nói khác hơi khó nói nhưng vẫn cần phải nói đó là: xin lỗi.
Xin làm ơn, xin cám ơn, xin lỗi. Bằng 3 lời nói này, bằng việc cầu nguyện của người chồng cho người vợ và ngược lại, bằng việc bao giờ cũng làm hòa trước khi kết thúc ngày sống, thì cuộc đời hôn nhân sẽ tiến phát
Ba lời nói mãnh lực, việc cầu nguyện cho nhau và luôn làm hòa. 
Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin anh chị em cầu nguyện cho tôi.
ĐGH PHANXICÔ
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)
  
GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO:
CỐT LÕI CỦA GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH
Lm. Giuse Đinh Quang Vinh
Khi nói đến giáo dục, phần đông cha mẹ quan tâm đến việc phải dạy dỗ con cái như thế nào? Phải dạy những gì? Thế nhưng, ít ai nghĩ đến tư cách của nhà giáo dục và đường hướng giáo dục thì quan trọng hơn cả phương pháp và nội dung giáo dục. Giáo dục để đào luyện con người nên người chứ không phải để thành các chuyên viên. Vì vậy giáo dục phải bắt đầu từ con người, nghĩa là bắt đầu từ cha mẹ.
Nếu phải giáo dục một điều cần nhất cho con người thì người ta phải dạy cho họ bài học yêu thương và kính trọng nhau. Con người học biết yêu thương và kính trọng không phải nơi sách vở nhưng nhờ được yêu thương và kính trọng. Chính tình yêu của cha mẹ dành cho nhau là bài học thiết yếu và căn bản nhất của việc giáo dục. Đó là kiểu mẫu mà con cái không thể học được ở đâu khác ngoài gia đình của mình. Nếu cha mẹ không là mẫu gương yêu thương và kính trọng thì họ có nỗ lực để dạy cho con cái bất cứ điều gì cũng chỉ là “dã tràng xe cát biển đông, nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.” Muốn dạy cho con cái bài học yêu thương và kính trọng, chính cha mẹ phải thực hành nó bằng cách năng quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Đó là bổn phận quan trọng nhất mà họ đang làm cho con cái. Con cái biết ơn cha mẹ vì tình yêu của họ đã làm nảy sinh sự sống và trao ban cho sự sống đó một lý do để sống.
Điểm then chốt đó chi phối cách giáo dục con cái. Cha mẹ không thể yêu thương nhau, yêu thương người hàng xóm và yêu thương con cái nếu họ liên tục kết án, phê bình, chỉ trích nhau. Khốn thay, đời sống con người yêu thương bao nhiêu cũng chưa đủ, ghét ghen một chút đã làm thương tổn rất nhiều. Một xúc phạm nho nhỏ có thể làm thương tổn mà năm đến mười lần xin lỗi chưa chắc đã làm lành. Đó là điều cần lưu ý khi cha mẹ dạy dỗ con cái bằng roi vọt, la lối, thóa mạ…Nhìn cách cư xử của một đứa trẻ nơi công cộng có thể biết đời sống cha mẹ của nó.
Nhu cầu thiết yếu của con người là được yêu thương và kính trọng. Vì lý do đó, khi giải quyết những xung đột trong gia đình, cha mẹ phải làm sao để mình là người trọng tài phân xử cho không ai bị thua cuộc, bị làm nhục, bị hạ giá… Thay vì chỉ khuyên lơn, góp ý, đề nghị thì cha mẹ nên khuyến khích con cái bằng cách chính mình phải kiên nhẫn lắng nghe bằng tất cả trí tuệ và con tim. Đó là bổn phận đầu tiên của tình yêu. Cha mẹ nên biết điều này: trẻ nữ có nhu cầu truyền đạt tình cảm của mình, cảm thấy được lắng nghe và được che chở, ai có thể làm được điều này cho con gái tốt hơn người cha; trẻ nam có nhu cầu cảm thấy được đánh giá cao cho cái tôi, ai có thể làm điều này cho con trai tốt hơn người mẹ. Bằng lời nói và việc làm, cha mẹ hãy tỏ cho con cái biết mình yêu thương chúng:  “Thanh thiếu niên không chỉ được yêu thương, nhưng chính các em cần biết mình được yêu thương” (Don Bosco).
Tình yêu của cha mẹ dành cho nhau là bài học căn bản cho con cái về nhân bản, đạo đức, tâm lý và văn hóa; những gì làm cho chúng nên người. Hơn thế nữa, đó còn là kho dữ trữ năng lượng để con cái có thể vượt qua nhưng khúc quanh của cuộc đời gập ghềnh sỏi đá trong các mối tương quan. Cha mẹ yêu thương và kính trọng nhau là sự trợ giúp lớn nhất cho con cái. Tình yêu liên kết cha mẹ lại cách bền vững là đá tảng kiên cố trên đó con cái xây dựng cuộc đời của mình. Vì lý do đó, trước khi cha mẹ có thể biết mình sẽ làm gì hữu ích cho con cái: “Hãy cố gắng làm cho mình được yêu mến” (Don Bosco).

  1. Gương giáo dục đức tin nơi gia đình Thánh nữ Têrêsa.
  • Khi Têrêsa mới lên bốn, bà mẹ đã bị ung thư…Bà đi hành hương Lộ đức để phó dâng đứa con út cho Đức Mẹ. Bà viết: “Con gái của tôi dịu dàng xinh xắn như thiên thần nhỏ. Nụ cười thật dịu hiền…Nó sẽ là người tốt mà mầm tốt ấy đã bắt đầu mọc rồi”…sau này Têrêsa đã viết: “Từ lúc lên ba, tôi chưa hề từ chối Chúa một điều gì”.
  • Têrêsa được dạy kính yêu Đức Mẹ hết lòng. Mỗi lần chạy nhảy tung tăng trên đồng cỏ Alăngsông, bao giờ cô bé cũng hái hoa về trang hoàng bàn thờ Đức mẹ.
    1. Gương giáo dục nơi gia đình các thánh tử đạo VN.
Thánh Máctinô Thọ (1787-1840) căn dặn các con: “Cha không còn làm gì cho các con ở thế gian này nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn, đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa muốn cha lìa xa các con…nhưng các con còn mẹ, hãy vâng lời mẹ…hãy quan tâm săn sóc các em. Các em hãy biết kính trọng, vâng lời anh chị. Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng, lần chuỗi mân côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo…”
  1. Lời Chúa sưởi ấm, chiếu sáng, soi đường gia đình công giáo.
Một người theo thuyết hoài nghi (nghi ngờ những chuyện tôn giáo) hỏi một bà cụ Kitô hữu:
- Làm sao cụ có thể chứng minh rằng: Thánh kinh là Lời Chúa?
- Vậy anh có thể chứng minh được là có mặt trời trên không trung không? Bà cụ hỏi.
- Có chứ, vì mặt trời sưởi ấm cho tôi, chiếu sáng, soi đường cho tôi đi.
- Tôi cũng thế, Thánh kinh thực sự là Lời Chúa, vì Thánh kinh cũng sưởi ấm lòng tôi, gia đình tôi, và còn chiếu sáng từng bước đường đời của tôi, của con cháu tôi suốt mấy mươi năm qua!     (Tài liệu GP. Cần Thơ)

* GIA ĐÌNH CẦU NGUYỆN:
KINH DÂNG GIA ĐÌNH
Lạy Chúa Giêsu,
Gia đình chúng con, cùng với cả những người vắng nhà, quây quần bên Chúa, Mẹ Maria và Thánh cả Giuse.
Chúng con chúc tụng, tạ ơn Ba Ngôi Thiên Chúa, vì ngay từ khi tạo dựng muôn loài, Chúa Cha đã ân cần tác tạo cuộc sống hôn nhân gia đình; vì chính Chúa đã thánh hiến cuộc sống này, khi sinh ra và lớn lên trong gia đình Na-da-rét, khi thiết lập bí tích hôn phối; để hôn nhân gia đình sẽ mãi được Thánh Thần thánh hóa trong Hội Thánh Chúa.
Xin cho gia đình chúng con noi gương Thánh Gia Chúa, cùng nhau Phúc Âm Hóa gia đình, nên Hội Thánh tại gia, nên cộng đoàn đức tin, bác ái, phượng tự và truyền giáo: biết tin cậy phó thác trọn vẹn nơi quyền năng Chúa Quan Phòng; biết kính mến Chúa trên hết mọi sự, chung thủy chăm sóc nhau, và yêu thương mọi người như chính mình; biết trung thành thờ phượng Chúa, nhất là mỗi ngày Chúa Nhật; biết rao truyền cho mọi người tin nhận Thiên Chúa là Cha, qua nỗ lực phục vụ sự sống, phục vụ xã hội và Giáo hội, đặc biệt là những anh chị em nghèo khổ, vật chất và tinh thần.
Xin Chúa hằng ngự trị trong gia đình chúng con, để giữa cuộc sống vui buồn, đầy cám dỗ, bon chen, lao nhọc, gia đình chúng con luôn suy tôn Chúa làm Vua Công chính và Yêu thương, Vua An vui và Hạnh phúc, hầu ngày sau được đoàn tụ cùng Chúa trên Nước Trời. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
 (Năm Tân Phúc Âm hóa Gia Đình, GP. Cần Thơ 2014)

GIA ĐÌNH SUY NIỆM LỜI CHÚA:

04/05 – Chúa Nhật III Phục Sinh năm A
“Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh”
Lời Chúa: Lc 24,13-35
Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn”. Người liền vào với các ông.
Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: “Thật, Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon”. Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Suy niệm
Bị bủa vây bởi những nỗi sợ hãi, tuyệt vọng, người ta dễ quên hay khó lòng nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Đó là trường hợp của hai môn đệ trên đường Emmaus. Điều này cũng có thể xảy ra với bất cứ ai, trong bất kỳ gia đình hay cộng đoàn nào.
Sứ điệp của câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus khẳng định một chân lý rất rõ ràng : Người ta chỉ có thể tìm thấy niềm hy vọng, niềm tin yêu khi nhận ra sự đồng hành của Đấng Phục Sinh trong cuộc đời mình, nhất là giữa những cơn sóng gió. Vì vậy, lời nài van xin Chúa ở lại với gia đình là điều không thể thiếu trong đời sống người Kitô hữu. Giữa những thử thách và khó khăn, gia đình chúng ta có vững niềm tin vào sự hiện diện của Chúa trong thế giới hôm nay không?
Lạy Chúa Giêsu, giữa những vất vả ngược xuôi của dòng đời, Chúa biết chúng con cần đến Chúa ! Gia đình chúng con xin lặp lại lời nguyện cầu của hai môn đệ xưa : Xin Chúa ở lại với chúng con, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn. Amen.

11/05 – Chúa Nhật IV Phục Sinh – CHÚA CHIÊN LÀNH
Ta là cửa chuồng chiên

Lời Chúa: Ga 10,1-10
Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp ; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.

Suy niệm
Chúa Giêsu thường dùng những ví dụ, những hình ảnh, những sinh hoạt trong đời sống để minh họa lời Người giảng dạy. Những người chăn chiên xứ Palestine chăm sóc đàn chiên của mình một cách đặc biệt; họ yêu quý và biết rõ từng con chiên một. Hình ảnh đơn sơ này diễn tả cách thân tình tấm lòng yêu thương, ân cần của Chúa đối với từng người chúng ta. Như người mục tử thí mạng vì đàn chiên, Chúa Giêsu đã hiến dâng mạng sống mình để nhân loại được sống và sống dồi dào.
Gia đình Kitô giáo được tham dự vào sứ vụ Mục Tử của Chúa Kitô khi nỗ lực xây dựng gia đình mình thành cộng đoàn phục vụ sự sống. Tấm lòng và cung cách phục vụ của Chúa là chuẩn mực để mọi người noi theo.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến trần gian để cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con biết mở rộng tâm hồn đón nhận sức sống tình yêu của Chúa, để gia đình chúng con thực sự trở nên nhân chứng tình yêu của Chúa cho thế giới hôm nay. Amen

18/05 – Chúa Nhật V Phục Sinh năm A
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”
Lời Chúa: Ga 14,1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi”. Ông Tôma thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người”.  [...] “Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”.
Suy niệm
Các Tông đồ xao xuyến khi nghe Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ rời xa các ông để trở về trời với Chúa Cha. Các Tông đồ cảm nhận sự hụt hẫng vì thiếu vắng sự hiện diện thể lý của Ngài trong cuộc đời, sự thiếu vắng tưởng chừng không có gì bù đắp được.
Để trấn an các Tông đồ, Chúa Giêsu hướng lòng các ông đến một thực tại cao cả hơn, Ngài đi để dọn chỗ cho các ông, vì hạnh phúc viên mãn chỉ đến trong vinh quang nước trời, nơi Chúa Giêsu ở đâu, những kẻ thuộc về Ngài cũng được ở đó. Để có được một cuộc sum vầy tràn ngập niềm vui và hạnh phúc này, các môn đệ cần tin tưởng bước theo Chúa Giêsu, Đấng là đường, là sự thật và là sự sống.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn rằng Chúa ở đâu, chúng con cũng được ở đó với Chúa. Cuộc sống hôm nay vẫn mở ra cho chúng nhiều lối đường để lựa chọn. Xin cho mỗi người trong gia đình chúng con biết chọn và can đảm bước đi trên con đường của Chúa, con đường làm chứng cho sự thật và phục vụ sự sống của Chúa. Amen.


25/05 – Chúa Nhật VI Phục Sinh năm A
“Thầy sẽ xin Cha
và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác”
Lời Chúa: Ga 14,15-21
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó”.
Suy niệm
Kitô giáo là tôn giáo của Ðấng đã chết nhưng đã sống lại và ở mãi bên con người cho đến tận thế. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu được ơn phục sinh nhờ thông hiệp với Ðức Kitô. Nhiều tín hữu sống èo uột, khép kín vì không nhận ra rằng : sự sống mới của Chúa đã bén rễ trong tâm hồn họ. Càng kết hợp với Chúa và mở lòng ra với tha nhân, sự sống ấy càng đâm chồi nảy lộc dồi dào.
Nhờ tình yêu và sức mạnh Thánh Thần của Chúa Kitô, gia đình Kitô giáo có thể vượt qua những thách đố của thời đại. Sự sống của Đấng Phục Sinh triển nở trong gia đình Kitô giáo sẽ giúp họ trung thành tuân giữ Giới Luật của Chúa và sống chung thủy với nhau.
Lạy Chúa, dù đã cố làm cho cuộc sống được bảo đảm hơn, tiện nghi hơn, nhưng thế giới hôm nay vẫn là một thế giới đói khát sự sống đích thực. Xin cho chúng con luôn biết kín múc sức sống của Ðức Kitô Phục Sinh và chia sẻ cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong yêu thương. Amen.
(Tài liệu Giáo phận Xuân Lộc)



[1] FC 55.
[2] CĐ Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis Humanae 2.
[3] GS 92.
[4] GLHTCG 2333.
[5] GLHTCG 2370; X. ĐGH Phaolô VI, Tđ. Humanae Vitae 16.
Nguồn: http://www.ubmvgiadinh.org/article/t%E1%BA%ADp-san-%E2%80%9Ch%E1%BB%99i-th%C3%A1nh-t%E1%BA%A1i-gia%E2%80%9D-s%E1%BB%91-1-ng%C3%A0y-2042014