LINH ĐẠO HÔN PHỐI
THEO THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ
Xin Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban phúc lành cho những người góp phần thực hiện tác phẩm này, cũng như cho quí độc giả thân thương. Tất cả để vinh danh Thiên Chúa và thánh hóa các gia đình. Bài được phổ biến : 1. LỜI MỞ, ngày 17.04.2014 2. Thần học Thân xác và Linh đạo Hôn phối của Lm Mai Đức Vinh, ngày 24.04.2014 3. Hôn nhân trong ánh sáng Hôn lễ của Đức Kytô và Giáo Hội, của Lm Mai Đức Vinh, ngày 01.05.2014 4. Duyên lành và thánh thiện của cặp vợ chồng của Ptvv Phạm Bá Nha, ngày 08.05.2014. 5. Hôm nay, ngày 15.05.2014 xin giới thiệu bài 5 « Để Hôn nhân trở nên một ơn gọi » của C. Micheline Kim Chi
ĐỂ HÔN NHÂN TRỞ NÊN MỘT ƠN GỌI
"Hôn nhân trở nên như ơn gọi của Kitô hữu với điều kiện phản ảnh được tình yêu của Chúa Kitô hôn phu, yêu thương Giáo Hội hôn thê, và Giáo Hội cố gắng đáp trả tình yêu ấy"
(Gioan Phaolô II, buổi tiếp kiến ngày 18.8.1982)
1. CHO MÌNH HAY CHO NGƯỜI
Đám cưới nào cũng là niềm vui cho gia đình và bạn bè của cô dâu chú rể. Những câu chúc và quà tặng cho đôi uyên ương thật ý nghĩa và tốt đẹp như: trăm năm hạnh phúc, hạnh phúc tới răng long tóc bạc v.v Nhất là niềm vui của cô dâu, như xác nhận một lần nữa với cha mẹ: Đây là người đàn ông con đã chọn, người sẽ mang lại hạnh phúc cho đời con.
Kết hôn là việc tự nhiên của con người, có người muốn có một trạng thái đầy đủ về cảm xúc và tình cảm trong hôn nhân, thường thấy ở phái nữ, hay hy vọng những xoa dịu của tình dục, xảy ra với phái nam. Và cũng không thiếu những đôi kết hôn để tìm được sự an toàn của một vài điều trong cuộc sống: tiền bạc, danh vọng, hay để lấp một khoảng trống cô đơn. Đây là sự thường gặp ở những người tìm mọi cách đi đến hôn nhân, để thoát ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn nào đó. Thái độ này thường làm cho người bạn yêu lẩn tránh dù bạn không thiếu những tính tốt, nhưng người khác phái có cảm nhận là họ bị bạn lợi dụng.
Xã hội hiện đại có xu hướng phá vỡ những giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình truyền thống, hôn nhân như chiếc bình thủy tinh mong manh dễ vỡ, vì mỗi hôn nhân là kết hợp giữa hai người khác biệt, có những quan điểm, ý thích không giống nhau, mâu thuẫn về nhiều điều. Khi hai người dự định kết hôn để thành lập một gia đình, cần xem xét kỹ lưỡng về những cá biệt của mình với người bạn đời, để có thể đồng ý phát triển, một tinh thần hôn nhân thích hợp cho cả hai. Đây có thể là một tiến trình rất khó khăn, nếu vội vàng thì sự tìm hiểu sẽ dễ lầm lẫn đưa tới thất vọng khi chung sống vì sự khác biệt của mỗi người.
Nếu coi hôn nhân như động lực để đạt mọi điều ước muốn của mình thì đó là một sự nguy hiểm không nhỏ. Người bạn đời của mình sẽ trở nên một phương tiện để thỏa mãn nguyện vọng mình đã "xây mộng", quên rằng người đó là con người chứ không phải là một dụng cụ. Nhiều khi cả hai người cùng một mục đích tìm ở đối tượng những khả năng để thỏa mãn tự ái cá nhân, họ mong tìm được hạnh phúc với người bạn đời của mình, trong trường hợp này, không có gì là sai trái, Sự tự nguyện cả hai là do tình cảm và lương tâm, khác với ơn gọi của các linh mục, tu sĩ, sự kết hôn của họ là xu hướng tự nhiên của con người, không phải là đáp lại ơn gọi, ngay cả khi họ lãnh nhận Bí tích hôn phối.
Bản tính hôn nhân là phát triển giá trị phục vụ và yêu thương của hai vợ chồng, người ta kết hôn để khám phá ra cách chia sẻ cho nhau tình yêu, ân sủng và tài năng mà Chúa đã ban cho mỗi người, trong hôn nhân không có sự lấn áp, ai hơn ai kém. Kết hôn là cơ hội cho người chồng và người vợ phục vụ lẫn nhau để xây đắp hôn nhân và tạo hạnh phúc gia đình, mà nó sẽ được coi là một đơn vị có giá trị của nước Thiên Chúa ở trần gian.
2. KHẢ NĂNG HAY ƠN GỌI
Dưới khía cạnh Kitô giáo, hôn nhân là một ơn gọi, là một hành động tốt đẹp và thánh thiện, là Bí tích, tình yêu vợ chồng trở nên phương tiện để qua đó mỗi người cảm nhận được tình Chúa yêu thương, nâng đỡ, qua lời kinh nguyện. Điều này giúp cho vợ chồng vượt qua được những cám dỗ, khó khăn đầy rẫy trong đời sống hôn nhân. Chỉ có thể gọi hôn nhân Công Giáo là ơn gọi khi tình yêu của vợ chồng được thể hiện với những đòi hỏi như "Hôn nhân tương đương như ơn gọi của người Kitô hữu với điều kiện phản ảnh được tình yêu của Chúa Kitô hôn phu, yêu thương Giáo Hội hôn thê, và Giáo Hội cố gắng đáp lại tình yêu ấy". Đức Phaolô II đã nhấn mạnh trong buổi tiếp kiến ngày 18.08.1982. Lời nói này là sự đòi hỏi tuyệt đối làm những người sửa soạn kết hôn e ngại, chúng ta hãy chú ý từng chữ, Ngài nói rất rõ: "Không phải là ơn gọi… Nếu…" Khi vợ chồng cùng hứa yêu thương nhau như yêu thương Thiên Chúa, cả hai đã tạo được một ơn gọi hôn nhân đích thực. Tính cách tuyệt đối và cốt lõi điều Đức Thánh Cha đưa ra làm chúng ta phải suy nghĩ: tình yêu này phải phản ảnh tình yêu tuyệt đối của Chúa Kitô hôn phu, với Giáo Hội hôn thê. Yêu đến độ Ngài đã tận hiến mình chết trên thập giá.
Nếu tình yêu của vợ chồng cũng tương tự như tình yêu của Chúa với Giáo Hội thì vợ chồng cũng phải thương yêu nhau hết lòng và hy sinh cho nhau. Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy tình yêu của bao người đã hiến mình vì ơn gọi yêu thương Giáo Hội (các Thánh tử vì đạo, các Thánh, những nhà truyền giáo) thật không phải dễ! Nhưng chỉ cần, khi kết hôn vợ chồng theo đúng những đòi hỏi của tình yêu thương nhau thì hôn nhân đó đã là một ơn gọi đích thực của người Kitô giáo.
Hôn nhân Công Giáo còn là một tương giao với Thiên Chúa như là một thành phần hợp tác cùng hai vợ chồng, là một quyết định đứng đắn và ngay thẳng để bao gồm Thiên Chúa như một dấu chỉ bảo chứng cho tình yêu hai người. Tin tưởng Thiên Chúa hiện diện trong tình yêu hôn nhân đem lại một kết quả thực tiễn khác: khi có những xung khắc, bất hòa, thử thách, vợ chồng ít muốn đối nghịch với nhau. Họ quay về với Thiên Chúa để tìm sự trợ giúp, cùng cầu nguyện chung, trong những lúc khó khăn nhất, họ luôn tin tưởng và dựa vào sự hiện diện của Ngài trong đời sống lứa đôi để bám chặt, tìm về bên nhau.
3. KẾT HÔN HAY VIỆC LÀM
Nếu hôn nhân trở nên một ơn gọi của Kitô hữu thì đôi vợ chồng cũng phải nghĩ và xây dựng cho nhau trong đời sống hôn nhân và nghề nghiệp. Văn hóa hiện đại thời nay đánh giá tất cả vào sự thành công hay những đòi hỏi của nghề nghiệp, là Kitô hữu chúng ta cần suy nghĩ sâu xa hơn về sự liên hệ giữa những hoạt động nghề nghiệp và ơn gọi hôn nhân. Làm cách nào đặt thứ tự và tầm quan trọng giữa bổn phận gia đình và công ăn việc làm, nhất là khi nghề nghiệp đòi hỏi ta phải dành nhiều thì giờ?
Thật khó tìm được giải pháp toàn vẹn. Nếu đôi vợ chồng cùng xem hôn nhân như một ơn gọi để hiến dâng tình yêu cho nhau như Đức Kitô đã hiến mình cho Giáo Hội thì ơn gọi Kitô hữu phải làm trước tiên là lo cho hôn nhân và gia đình của họ, đó cũng là điều đẹp ý Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, cũng có những cặp vợ chồng quá lo toan cho nghề nghiệp mà quên hẳn bổn phận gia đình.
Khi anh Đông, luật sư, và chị Xuân, kỹ sư nông lâm, quyết định xin chịu Bí tích hôn phối sau một năm rưỡi yêu nhau, gia đình, bạn bè đều vui mừng và cho rằng họ là cặp vợ chồng lý tưởng, rất xứng đôi. Cả hai đều đã nỗ lực để thăng tiến trong nghề nghiệp, với những hy sinh, để đạt được thành công như hiện tại, họ nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục cố gắng hơn để xây dựng sự nghiệp, tạo một gia đình hạnh phúc. Sáu tháng sau, Đông được lên chức nhưng phải đi làm việc ở bên Arabie Saoudite, Xuân không muốn chồng đi làm xa, nhưng Đông đã thuyết phục vợ với những lý lẽ chắc nịch và rất thực tế như: thời buổi kinh tế khủng hoảng, đây là cơ hội để Đông sẽ tiến xa hơn, lương tăng gấp ba, vợ chồng phải hy sinh để củng cố ngân quỹ gia đình lo cho con cái sau này, không lâu anh sẽ trở lại Pháp làm việc... Xuân đành đồng ý để chồng đi làm xa dù chị hơi e ngại, vợ chồng chị sẽ cô đơn, trống trải lắm đây vì "anh ở đầu sông, em cuối sông". Hai, ba tháng một lần, Đông và vợ đi thăm nhau, làm chuyến khứ hồi đã mất hai ngày, thời gian gần nhau chẳng được bao nhiêu, chưa kể có những khi Đông bận rộn vì việc làm, họp ở sở bất kể ngày giờ, làm Xuân xót xa vì thương chồng. Đông cũng bỏ không dự lễ như khi ở Pháp vì là xứ Hồi giáo, nhà thờ Công Giáo hầu như không có, trừ một vài nơi dành cho nhân viên ngoại giao của các sứ quán. Đông chờ qua năm, hy vọng được chuyển đi nơi khác, Xuân cũng sốt ruột không kém chồng, nhưng Đông nói cứ chờ chứ không muốn làm đơn xin đổi ngay, anh vẫn có ý mong được thăng thưởng thêm lần nữa trước khi đi. Hai năm trôi qua, cả hai vợ chồng đều mệt mỏi, nhất là Xuân, những lần gặp chồng nàng luôn thúc dục Đông xin đổi việc làm về Pháp, vợ chồng được gần nhau, Đông ậm ừ cho qua chuyện… rồi những ngày tháng chờ đợi trôi qua… Khi hai người có cơ hội ở gần nhau, họ không muốn nói với nhau một lời nào, không khí ngày càng trở nên nặng nề. Tám tháng qua, cả hai đều mệt mỏi, không giải quyết được vấn đề, cùng đồng ý lập đơn ly dị. Họ không biết phải chọn nghề nghiệp hay hôn nhân? Đời sống lứa đôi của họ thọ được ba mươi tháng, chưa đầy ba năm!
Maurice Shumann, một người Công Giáo, đã cho chúng ta thấy ông không kết hôn để dành hết cuộc đời làm chính trị, hoặc như nhạc sĩ nổi tiếng Camille Saint-Saens, kết hôn trễ, ở tuổi 40, có đời sống nội tâm và một đức tin vững vàng, nhưng vẫn không thể dung hòa những đòi hỏi trong đời sống nghệ thuật với đời sống gia đình.
Mỗi hoàn cảnh đều có những khác biệt, không phải chúng ta phải tránh làm một số nghề, nhưng khi lập gia đình, chúng ta cần đề cao cảnh giác là dành phần ưu tiên cho đời sống gia đình. "Công việc trước hết là để dành cho con người chứ không phải con người dành cho công việc" đức Gioan Phaolô II đã nhắc lại trong thông điệp nói về công việc của con người. Người nói tiếp "Chúng ta nên nhớ và xác tín rằng: gia đình là trọng tâm, để từ đó luật lệ xã hội và đạo đức được tạo thành"
Chúng ta có thể dung hòa để đưa đến một thỏa thuận nào đó, nhưng về phương diện trên, khi kết hôn, người Kitô hữu phải dành ưu tiên cho ơn gọi gia đình, mọi thứ khác chỉ là phần phụ thuộc. Ta sẽ nghĩ sao khi một linh mục bỏ thì giờ cầu nguyện để lo việc khác trong cộng đoàn? Người ta kể rằng các nữ tu ở dòng Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa, dù kiệt sức trong công việc phục vụ những bệnh nhân đang hấp hối trong thành phố Calcutta, Mẹ Têrêsa Calcutta đã không bớt thời giờ cầu nguyện mà mỗi ngày lại tăng thêm một giờ chầu Thánh Thể. Cũng như một kỹ nghệ gia Gia nã Đại đã hỏi người "Tôi có phải hiến tất cả của cải như trong Thánh Kinh dạy không? Mẹ Têrêsa trả lời: Ông không thể cho, những của này không thuộc về ông, ông chỉ là người quản lý chỉ để cai quản. Nhưng ông có thể cai quản theo cách của Chúa Giêsu, là làm theo thứ bậc tình yêu của ông: vì ông có gia đình, trên hết là vợ, rồi đến các con của ông, tiếp theo mới đến những nhân viên trong xí nghiệp" Lúc đó, vị kỹ nghệ gia mới ý thức là ông đã đảo ngược những bậc thang ưu tiên của đời sống. Ông đã đặt xí nghiệp lên trên hết, sau đó rất xa, mới đến vợ con.
Về phương diện này, vợ chồng Kitô hữu sống trong ơn gọi hôn nhân có thể sẽ gặp những điều đối nghịch trong một xã hội mà con người phải phụ thuộc nhiều vào đời sống nghề nghiệp, đôi khi họ phải hy sinh can đảm, bỏ qua những cơ hội thăng tiến trong việc làm. Nhất là cần ý thức rằng không gì tốt đẹp và cao cả bằng công việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Trong thư gửi các gia đình năm 1994 đức Gioan Phaolô II không ngần ngại nói rằng "Trong gia đình, chúng ta phải nhấn mạnh đến giá trị, tầm quan trọng những công việc phụ nữ làm trong gia đình, công việc này phải được nhìn nhận và đánh giá cách tối đa. Trách nhiệm của người đàn bà, sau khi sinh con, nuôi nấng, trông con rồi dậy dỗ đứa trẻ, nhất là khi chúng còn nhỏ, rất lớn và quan trọng không kém gì một công việc chuyên môn". Vì thế, để tìm ra ơn gọi hôn nhân, cả hai cũng phải khôn ngoan cân nhắc và nhất là chung lời cầu nguyện.
Có nhiều mặt phải giải quyết trong cuộc sống, thiết tưởng, nếu đôi lứa coi hôn nhân như sự đáp trả một ơn gọi thì cần cân nhắc lấy quyết định chọn đời sống gia đình.
Chúc Anh Chị trung thành với ơn Chúa và trọn đời hạnh phúc
|
Dẫn nhập
Khi ấy, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng nhiều điều. Người nói: “Kìa người gieo giống ra đi gieo giống. Trong khi người ấy gieo thì có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá... Có những hạt rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13, 4-8).
Trong viễn cảnh một cuộc hội nhập văn hóa rộng lớn ở Á châu, cụ thể là tại vùng đất “con rồng cháu tiên” này, lời mời gọi gieo rắc hạt giống Tin mừng trở nên cấp thiết. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn “Ecclesia in Asia”, số 1, đã bày tỏ niềm hy vọng có được một mùa gặt bội thu tại cánh đồng màu mỡ giàu chất tâm linh này.
Cánh đồng Á châu thật bao la bát ngát, bước chân người gieo giống còn phải lắm phen bôn ba bươn chải. Trong lúc đợi chờ cả cánh đồng ánh lên màu lúa mới, chúng ta trở về mảnh đất gia đình thật gần gũi thân quen, nơi đó chúng ta gieo vãi hạt giống Tin mừng. Thiết tưởng rằng việc làm này có thể góp thêm một chút gì đó cho việc hội nhập văn hoá và đặc biệt cho năm thánh hoá gia đình.
Gia đình chính là nền tảng vững chắc để xây dựng xã hội, xây dựng Giáo hội, là mảnh đất màu mỡ để hạt Tin mừng có thể nảy mầm, đâm rễ và sinh hoa kết trái. Tông huấn “Familiaris Consortio” đặc biệt quan tâm đến gia đình bởi bao mối nguy hiểm đang đe doạ làm cho gia đình bị suy sụp, phần vì người ta quan niệm tự do một cách lệch lạc, phần vì não trạng hưởng thụ đang bành trướng. Tông huấn Familiaris Consortio, số 6.
Nhiều gia đình đã biến chất, tha hoá và vong thân. Thánh hoá gia đình thiết nghĩ là làm sáng lên những giá trị truyền thống, những nét đẹp tinh thần và Tin mừng hóa những giá trị cao quý ấy. Tin mừng hóa không có nghĩa là thay thế những giá trị, mà là làm cho những giá trị đó sáng lên. Thiết tưởng công việc gieo rắc Tin mừng nên khởi đi từ việc phát hiện những điểm sáng đó.
I. Thăm dò vùng đất
1. Mảnh đất gia đình Việt Nam
Gia đình Việt Nam thuộc loại hình gia trưởng, quyền bính thường tập trung vào người cha, người đứng đầu trong gia đình. Cái mô hình gia trưởng ấy lại nằm gọn trong một lối sống có tổ chức theo lối làng xã và cộng đồng. Quyền lợi tập thể luôn được đề cao hơn quyền lợi cá nhân, cho dù đó là những việc riêng tư nhất. Trong lối sống cộng đồng ấy, người Việt Nam suốt đời quanh quẩn với lũy tre xanh, trong chiếc cổng làng khép kín. Mỗi gia đình lại là một thế giới riêng nữa, nhất là khi Nho giáo vào Việt Nam, những "định chế" ấy lại càng được củng cố một cách vững vàng hơn.
Do ảnh hưởng rất nhiều từ Nho giáo, người Việt Nam coi trọng sự bền vững của gia đình, với những tôn ti trật tự, với cung cách ứng xử theo mỗi bậc người. Theo đó, người Việt Nam có nét đặc trưng trong cách thức chào hỏi, xưng hô, giao tiếp ... mà những ngôn ngữ của các dân tộc khác dù văn minh cũng không có được. Linh mục F. Buzomi thuộc dòng Tên, quốc tịch Italia, một nhà truyền giáo đã đặt chân lên mảnh đất Việt Nam khá sớm vào ngày 18.1.1615, đã ghi lại một nhận xét rất chí lý rằng: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt Nam đã có một tổ chức rất cao. Người dân Việt Nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo” Theo Nguyễn Hồng,“Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam”, Sài Gòn 1959, tr. 55.
Một trong những nét phong tục, hay có thể gọi tên khác là văn hóa hay tín ngưỡng của người Việt Nam là việc thờ cúng ông bà tổ tiên. Trong mỗi gia đình người Việt Nam, dù sang hay hèn, cũng dành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm hay lễ tết, nếu có của thì làm mâm cơm thịnh soạn cúng ông bà, nếu không có thì một bát cơm, một chén nước lạnh cũng xong. Quan trọng hơn hết vẫn là tấm lòng con cháu đối với ông bà. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đỗ đạt ... cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi sự việc để các ngài chứng giám. Nét văn hoá tâm linh này là một truyền thống quý báu của mỗi gia đình người Việt.
Văn hóa gia đình Việt Nam cũng yêu chuộng những gì là tình nghĩa hơn là lý sự: “một bồ cái lý không bằng một tý cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích xuề xòa dễ dãi “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải, “người là vàng, của là ngãi” hoặc “người làm ra của chứ của không làm ra người”; thích anh em bốn bể một nhà, “tứ hải giai huynh đệ”;... đặc biệt là tinh thần độ lượng, khoan dung, “đánh kẻ chạy đi ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái này là “thương người như thể thương thân”. Đến đây, ta thấy văn hoá Việt Nam, hay văn hoá gia đình Việt Nam đã có rất nhiều nét giao thoa với giá trị của Tin mừng. Những nét đẹp tinh thần này tạo nên các gia đình Việt Nam với phong cách đặc biệt, một phong cách rất Việt Nam.
Đối với người Việt Nam, gia đình là một giá trị hết sức thiêng liêng, nói như nhà thơ Chế Lan Viên:
“Khi ta ở đất là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Người Việt Nam vẫn nhớ mãi nơi chôn nhau cắt rốn; dù có xuôi ngược phương nào, ngày tết ngày tư bằng mọi cách cũng phải về với gia đình, dù đó chỉ là một mái nhà tranh. Đi sâu vào tìm hiểu gia đình, chúng ta thấy gia đình mang một ý nghĩa tuyệt vời đối với sự sinh trưởng và thành toàn của mỗi người trên cả lãnh vực văn hóa, xã hội, thể lý, tâm lý, và tâm linh nữa.
Gia đình, tự bản chất là một thực thể văn hóa. Chắc hẳn chúng ta đều công nhận rằng con người sống trong gia đình không chỉ đơn giản có mối quan hệ huyết thống, với chức năng sinh sản ra các thế hệ nối tiếp. Trước tiên gia đình phải là một tổ ấm, ở nơi đó con người trao đi và đón nhận những tình cảm vô tư nhất, linh thiêng nhất, cao cả nhất. Điều này không chỉ thể hiện nơi những người đang sống, mà còn cả với những người đã khuất. Nét văn hóa tâm linh trong mối quan hệ giữa các thế hệ huyết thống gia đình là mối dây bền chặt, vừa bí ẩn vừa linh thiêng. Cội nguồn của gia đình phát xuất từ mối dây thiêng liêng đó.
Gia đình là một môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống … để con người có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội. Một sự giáo dục toàn diện phải chú trọng đến cả tài và đức. Gia đình chính là nơi đào tạo căn bản nhất nền móng ban đầu để con người phát triển cái tài và nhân rộng lên cái đức sau này. Cái đức chính là sự thừa hưởng nền móng gia đình, hay có thể nói là kết quả giáo dục của gia đình.
Mỗi giai đoạn lịch sử, gia đình ứng với một mô hình khác nhau. Thời văn minh tiền sử, có lẽ không có khái niệm gia đình như chúng ta có hiện nay, con người lúc đó sống bầy đàn, lao động chủ yếu là hái lượm, hay nói cách khác là thiên nhiên ưu đãi và nuôi dưỡng họ. Sang đến thời văn minh nông nghiệp, gia đình xuất hiện như một đơn vị sản xuất; nhưng đến thời văn minh công nghiệp, tính địa phương bị phá vỡ, mô hình gia đình hạt nhân xuất hiện; và rồi khi bước sang nền văn minh trí tuệ, thì mô hình gia đình hạt nhân này cũng sẽ bị phá vỡ. Tuy nhiên, dù là mô hình gia đình nào đi nữa, thì cũng chính cái nôi ấy con người được sinh ra, nuôi dưỡng và trưởng thành. Mái trường gia đình không phải chỉ giáo dục con người một sớm một chiều, nhưng rong ruổi theo bước con người suốt cuộc đời của họ. Những kỷ niệm, ký ức là một phần gia sản của con người mà họ chỉ tìm lại được nơi mái ấm gia đình của mình.
Hai chữ gia đình thật là thân thương, nơi đó con người hình thành cả một nhân cách sống. Trong bầu khí của tình làng nghĩa xóm, trong cái thân thương quen thuộc người ta thường gọi bằng hai tiếng “quê hương”, gia đình dạy con người về đạo lý, thế nào là yêu tổ quốc, quê hương, thế nào là “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”...
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen gentium” cũng cho chúng ta một nhận xét rất thâm thuý về gia đình và sứ mạng của gia đình:
“Gia đình là môi trường hoạt động và là trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào tất cả các tổ chức của cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy. Nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái lòng tin và tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của nước Thiên Chúa và niềm trông cậy vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và lời chứng, gia đình Kitô giáo thuyết phục thế gian về tội lỗi đồng thời soi sáng cho những ai đang tìm kiếm chân lý” (LG số 35).
“Gia đình là môi trường hoạt động và là trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào tất cả các tổ chức của cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy. Nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái lòng tin và tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của nước Thiên Chúa và niềm trông cậy vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và lời chứng, gia đình Kitô giáo thuyết phục thế gian về tội lỗi đồng thời soi sáng cho những ai đang tìm kiếm chân lý” (LG số 35).
Một khi đã nhìn ra những nét đặc sắc và vị trí quan trọng của gia đình, chúng ta tìm hiểu xem đâu là mạch nước ngầm tạo nên mảnh đất gia đình phì nhiêu đó.
2. Mạch nước ngầm
Chúng ta có thể nhận thấy hai dòng chảy lớn tạo nên sức sống phong phú của mảnh đất gia đình, đó là tinh thần đại gia đình và tinh thần đạo hiếu trong mỗi gia đình người Việt.
a. Tinh thần đại gia đình
Gia đình truyền thống Việt Nam không sống riêng lẻ nhưng tập trung thành đại gia đình. Mỗi gia đình lớn này có nhiều thế hệ sống với nhau, thường là ba bốn thế hệ, tứ đại đồng đường: ông bà, cha mẹ, con cái và cháu chắt. Cha mẹ già không đem gởi vào nhà dưỡng lão, nhưng sống chung với con cái. Người Việt Nam quan niệm : “Một mẹ già bằng ba hàng dậu”, cha mẹ già không thể tiếp tục công việc đồng áng thì ở nhà giữ cháu cho con cái đi làm. Và như vậy cũng chẳng cần gởi con đi nhà trẻ, gia đình lúc nào cũng ấm cúng, tuổi thơ của con được ươm đầy ắp tiếng ầu ơ của bà, được trau dồi cái nhân cái nghĩa ngay từ thuở chưa rời vành nôi.
Rồi khi con cái lớn lên, lập gia đình mới, cha mẹ lại cho miếng đất dựng lên căn nhà, thế là con cái lại xum vầy bên cha mẹ, lúc tắt lửa tối trời có mặt bên nhau. Cứ thế hệ này nối tiếp thế hệ kia tạo thành một dòng họ đông đúc. Mô hình gia đình xã hội nông thôn này còn được củng cố mạnh mẽ bằng tình làng nghĩa xóm, và mỗi đại gia đình lại còn có khu đất tổ, có nhà thờ họ (từ đường), có đất hương hỏa ... nên tình nghĩa đã đầy lại càng sâu nặng hơn.
Chính cái gia sản tinh thần này là chất keo nối kết tâm hồn người ta lại, để rồi ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một ... đi đâu cũng phải nhớ về” Trích trong bài thơ “Quê hương” của Đỗ Trung Quân..
b. Tinh thần đạo hiếu
Gia đình là cơ sở xã hội Việt Nam, sức mạnh của gia đình là chữ hiếu. Trong gia đình không tội gì nặng cho bằng tội bất hiếu. Con cái phải kính trọng và vâng lời cha mẹ. Luật nhà Lê trừng phạt những con cháu phản kháng lại ông bà, cha mẹ, cũng như những người vợ phạm những hành động như vậy đối với cha mẹ chồng. Điều 475 luật Hồng Đức thiết định rằng con cháu đánh ông bà thì phải lưu đày, thậm chí xử giảo. Con cháu phải nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ. Lòng hiếu thảo không cho phép con cháu thưa kiện ông bà hay cha mẹ của mình. Luật Gia Long định rằng con cái phải che dấu những lỗi lầm của cha mẹ, trừ những tội liên quan đến an ninh quốc gia. Tuy vậy con cái vẫn có quyền đối thoại, thưa lại với cha mẹ khi mệnh lệnh của các ngài quá đáng hoặc sai trái. X. Sđd, tr. 578.
Khi cha mẹ qua đời, lòng hiếu thảo càng phải được thể hiện sâu sắc hơn. Việc lo tang lễ, cúng giỗ cho người đã khuất là một nghĩa vụ thiêng liêng và là cách thể hiện chữ hiếu cụ thể nhất. Con cái phải để tang cha mẹ trong ba năm. Trong thời gian gia đình có tang chế, con cái phải tuyệt tối hoà thuận yêu thương nhau. Người ta cũng kiêng cữ không kết hôn trong thời gian gia đình có cha mẹ qua đời. Quả thực, chữ hiếu là sợi dây nối kết mọi người trong dòng họ.
Không chỉ ở Việt Nam, mà Á đông nói chung, chữ hiếu là nhân đức thiêng liêng nhất. Chẳng những đức hiếu hướng về tổ tiên, ông bà, cha mẹ, mà còn bao trùm mọi mối tương quan khác của con người trong xã hội. Theo Mạnh Tử, bổn phận đối với cha mẹ là nền tảng cho mọi bổn phận khác L. Cadière, Gia đình và tôn giáo ở Việt Nam, Huế, 1930, tr. 412..
Bên cạnh chữ hiếu, người Việt Nam cũng còn đề cao chữ trung nữa. Ca dao Việt Nam có câu:
“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu răn mình”.
Gái thời tiết hạnh làm câu răn mình”.
Khi truyền giáo ở Việt Nam, cha Alexandre de Rhodes đã hội nhập hai đức tính này và làm nên một nền thần học “Tam Phụ”: ngoài người cha trong gia đình mà ai cũng kính trọng, thì còn người cha ngoài xã hội là vị vua mà mọi người phải trung tín, và đặc biệt trên trời còn có một người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa nữa. Trong cuốn “Phép giảng tám ngày”, cha viết: “Bây giờ, ta phải hay có ba đấng bề trên là ba cha, ta phải thờ ở đấng nào cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh ra thân xác cho ta, đấng giữa là vua chúa trị nước, đấng trên là đức Chúa trời đất, làm chúa thật trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mới được sống được ở”. A. De Rhodes, “Phép giảng tám ngày”, tủ sách đại kết, in lại theo bản gốc do Rôma xuất bản năm 1651, tr. 17.
Phải hiểu được chữ hiếu này, chúng ta mới thấy được việc thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam là thiêng liêng và cao quý biết bao. Tiếc thay nhiều người Kitô hữu Việt Nam đã trở nên xa lạ ngay với nhưng phong tục của quê hương xứ sở mình. Nhiều người nói rằng chúng ta vong thân cũng là có lý do của họ. Chẳng vậy nhà Nho Nguyễn Đình Chiểu đã cật lực phản đối việc một số người Việt Nam bỏ thờ cúng tổ tiên mà chạy theo một tôn giáo mới:
“Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ”.
Một khi hiểu được hạt giống mình gieo vãi, hiểu được đặc tính mảnh đất hạt giống sẽ sinh trưởng, thì việc gieo trồng sẽ hy vọng đạt được nhiều hoa trái.
II. Gieo trồng
1. Cải tạo đất
Mảnh đất gia đình Việt Nam màu mỡ, có nhiều điểm phù hợp với hạt giống Tin mừng; tuy nhiên, cũng còn nhiều điểm cần cải tạo, khôi phục. Việc làm trước tiên đó là:
a. Khôi phục dòng chảy
Như đã phân tích ở trên, dòng chảy ngầm làm cho mảnh đất gia đình phì nhiêu đó là tinh thần đại gia đình và chữ hiếu. So sánh gia đình Việt Nam hiện nay với gia đình Việt Nam truyền thống, chúng ta thấy có nhiều khác biệt. Nếu như ngày xưa người ta sống thành làng xã, suốt đời quanh quẩn với luỹ tre xanh, tính địa phương, cộng đồng, làng xã được đề cao; thì ngày nay người ta theo lối sống thành thị nhiều hơn. Mô hình gia đình truyền thống bị phá vỡ. Đại gia đình không còn nữa, không còn “tứ đại đồng đường”, thay vào đó là mô hình gia đình hạt nhân. Người ta không thể đưa cả ông bà, cha mẹ, con cái vào xí nhiệp, nhà máy. Lúc này mỗi cá nhân được tôn trọng chứ không phải là cộng đồng nữa. Những người già cũng mất dần chỗ đứng trong gia đình, họ phải sống trong những trại dưỡng lão chứ ít khi còn là “một mẹ già bằng ba hàng dậu”.
Ở nông thôn cũng vậy, con cái sẽ không còn ở mãi với cha mẹ, khi lớn lên phần lớn chúng đến những thành phố, những khu công nghiệp để tìm kiếm việc làm. Gia đình không còn gói gọn nơi bờ dậu và luỹ tre xanh, mà là ngôi nhà toàn cầu, ngôi nhà thế giới.
Đó là chưa nói đến hệ quả của nền văn minh trí tuệ, người ta cho rằng ngay cả mô hình hạt nhân cũng bị phá vỡ. Rồi đây số người làm việc trong văn phòng, lo dịch vụ vượt hơn số người làm trong nhà máy. Người ta dùng nhiều máy móc, phương tiện tối tân mà trước kia không hề nghe nói tới, nào là máy vi tính, thuốc ngừa thai ... và vấn đề văn hoá, vấn đề đạo đức gia đình được đặt lại.
Trong xã hội ngày nay, gia đình phải đối đầu với nhiều vấn nạn mới nữa. Nào là tệ nạn ma tuý, nạn dịch AIDS, bạo lực trong gia đình, con cái phải đối cha mẹ rồi bỏ nhà đi hoang ... Những giá trị truyền thống của gia đình phải được đặt lại, hay đúng hơn cần được khôi phục. Giới trẻ ngày nay ít ai còn hiểu thế nào là “tam cương, ngũ thường” (nhiều người cho đó là lỗi thời, lạc hậu)... thay vào đó là lối sống buông thả tự do, tất cả là hưởng thụ, là nguyên tắc khoái lạc chi phối. Do chủ nghĩa cá nhân được đề cao, nên gia đình lại bị coi nhẹ. Nhiều gia đình chỉ còn là quán trọ, là chỗ dừng chân cho những lúc tâm hồn quá mệt mỏi ê chề.
Việc khơi lại nguồn mạch lúc này là cần thiết. Cần làm sống lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình, Tin mừng hoá cần bắt đầu bằng những việc làm cụ thể đó.
Bước kế tiếp trong việc cải tạo lại mảnh đất gia đình, thiết nghĩ phải là:
b. Gạn đục khơi trong
Không phải nét tuyền thống nào của gia đình cũng đều là quý. Cần phải có sự chọn lựa thanh lọc. Nếu như nét truyền thống của gia đình Việt Nam là gia trưởng, thì nhiều khi tính gia trưởng này lại phát triển thái quá, quá khích, tạo nên một cung cách trịch thượng hay áp đặt trong gia đình. Nhiều khi người cha không biết lắng nghe mà chỉ biết ra lệnh, điều gì trái ý mình thì la mắng, đánh đập ... Trong bối cảnh này mà chúng ta rao giảng Thiên Chúa là Cha, chắc hẳn sẽ gặp không ít trở ngại, và Thiên Chúa sẽ không mấy được thiện cảm.
Lật lại trang sử Việt Nam từ thế kỷ X – XIX, ta thấy đây là thời kỳ chế độ phong kiến đè bẹp con người, đặc biệt là đối với phụ nữ. Chế độ này có cả một hệ thống hoàn chỉnh tinh vi về lý luận cũng như thực tiễn để kìm hãm, áp bức phụ nữ. Về thể chế gia đình, quyền tập trung vào người đàn ông gia trưởng, người phụ nữ bị trói buộc trong tôn pháp và lễ giáo. Điều này được ghi rõ trong luật Hồng Đức và nhất là trong luật Gia Long. Người phụ nữ bị cấm cửa, không được học hành, và dĩ nhiên không được mở mang trí tuệ. Điều này đã hạn chế rất nhiều khả năng cống hiến của người nữ. Họ bị ràng buộc về cả tinh thần lẫn vật chất, dẫn đến một sự chêng lệnh, bất công rất lớn trong gia đình và xã hội.
Lại còn bao hủ tục về ma chay cưới hỏi nữa cũng kiềm tỏa sự tự do của con người. Nếu như Tin mừng là quà tặng sự sống, thì những gì là bất công, là trói buộc con người cần phải được tháo cởi. Do vậy việc gạn lọc những giá trị trong truyền thống của gia đình Việt Nam cũng là một việc làm cấp thiết để hạt Tin mừng không bị cỏ dại lấn át.
Sau khi đã khơi lại dòng chảy là những truyền thống tốt đẹp, đồng thời chọn lựa những nét tinh tuý và gạn lọc truyền thống đó, chúng ta làm cho những giá trị của Tin mừng được sáng lên nơi mảnh đất gia đình thân thương này.
2. Gieo trồng
Một quan niệm mới trong việc rao giảng Tin mừng hôm nay là làm sáng lên những nét tinh tuý đã tiềm tàng sẵn trong mỗi nền văn hóa. Đối với môi trường gia đình Việt Nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình cụ thể này. Theo kinh nghiệm của những người gieo trồng, thì yếu tố thời vụ cũng góp phần không nhỏ cho mùa gặt bội thu.
a. Đúng thời vụ
Yếu tố “thời vụ” chúng ta bàn ở đây là “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Hạt giống Tin mừng đã sẵn sàng, môi trường gia đình đã chuẩn bị xong, chỉ còn lại yếu tố là lòng người có khao khát đón nhận hay không mà thôi.
Như chúng ta thấy, người Việt Nam rất dễ cởi mở để đón nhận những tôn giáo khác. Bằng chứng cụ thể là sự phát triển Tam giáo ở Việt Nam. Hơn thế nữa, hơn lúc nào hết con người thời nay khao khát tâm linh, một cơn khát tìm về với cõi vô biên, thanh tịnh. Hãy nhìn những cung cách cúng vái, thực hành tín ngưỡng của phần đông dân chúng ta có thể cảm được phần nào. Giáo hội nhận thấy rằng: “Trong lòng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á châu có một cơn khát “nước hằng sống” (X. Ga 4, 10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ có mình Chúa Giêsu Cứu Thế mới có thể thoả mãn đầy đủ”. Tông huấn Ecclesia in Asia, số 18.Phải chăng đây chính là “thời vụ”, là yếu tố “nhân hòa” để hạt Tin mừng có thể đâm rễ, trổ bông? Với tinh thần lạc quan, chúng ta có thể thấy rằng hạt giống đã rơi vào đất tốt.
b. Hạt giống rơi vào đất tốt
Gia đình Việt Nam với những yếu tố như đã khai triển ở trên, thì quả thực là mảnh đất tốt cho Tin mừng phát triển. Nếu yếu tố đại gia đình là nét truyền thống quý báu mà người Việt trân trọng, thì Tin mừng loan báo một Nước Thiên Chúa phổ quát, mọi người là anh em; nếu đạo hiếu là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt trong gia đình lại, đặc biệt qua việc thờ kính tổ tiên, thì Tin mừng loan báo cho mọi người biết họ có một Cha trên trời, và họ phải hết lòng tôn kính hiếu thảo; nếu tinh thần gia đình là yêu thương tương trợ lẫn nhau, thì Tin mừng có dạy điều gì khác hơn là “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; và nếu như tinh thần gia đình người Việt Nam là quý yêu sự sống, thích sự bình dị, và sống chan hoà, thì Tin mừng cũng dạy chúng ta: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), và “Anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”... Như vậy Tin mừng không dạy điều gì mới mẻ, mà chỉ làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hóa gia đình Việt Nam. Có nét mới mẻ chăng là mặc cho những giá trị văn hóa ấy một chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ. Tin mừng không chỉ thoả mãn cho con người sức sống thể lý, hạnh phúc chóng qua, mà còn hứa ban cho con người sự sống siêu nhiên, hạnh phúc vĩnh cửu.
Như vậy rao giảng mà như chẳng rao giảng gì, nhưng lại là rao giảng hữu hiệu. Điều quan trọng là biết cho người khác cái gì, cho như thế nào và cho lúc nào. Yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” vẫn là điều quan trọng cần quan tâm.
Kết luận
Tục ngữ Việt Nam ta có câu: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Đây là bốn yếu tố quan trọng làm nên một mùa gặt nặng hạt. Xin tạm làm một phép so sánh loại suy rằng: nước : chính là yếu tố truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam; phân: chính là sự thúc đẩy làm sáng lên những giá trị truyền thống ấy; cần : chính là sự dấn thân, đời sống chứng tá, đặc biệt là tác động của Chúa Thánh Thần; và giống : chính là hạt giống Tin mừng, là đạo lý Chúa Kitô. Kết hợp bốn yếu tố này chúng ta hy vọng có một mùa gặt với niềm vui rạng rỡ của những tay thợ vai nặng gánh lúa vàng. Hy vọng bộ mặt gia đình Việt Nam sẽ được Tin mừng hóa, sẽ sáng ngời không chỉ bởi vì những giá trị cao đẹp của truyền thống, nhưng ánh lên ánh sáng của Tin mừng đích thực, một Tin mừng sống động đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Quốc Văn, OP.
Thư mục:
1 – Công đồng Vat. II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium.
2 – Đức Gioan Phaolô II , Tông huấn về gia đình, Familiaris Consortio.
3 - Đức Gioan Phaolô II , Tông huấn hậu Thượng hội đồng Giám mục Á châu, Eccléia in Asia.
4 – Tọa đàm một số vấn đề về văn hóa Công giáo Việt Nam, Tòa TGM Huế, năm 2000.
5 – Nguyễn Chính Kết, Thích ứng và Hội nhập văn hóa trong truyền giáo. TP. HCM, 1998.
6 – Nguyễn Văn Huyên, Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 2. Hà Nội, KHXH, 1996.
7 – L. Cardière, Gia đình và tôn giáo ở Việt Nam. Huế, 1930.
8 – A. De Rohdé, Phép giảng tám ngày, Tủ sách Đại kết, In theo bản gốc Rôma, xuất bản 1651.
9 – Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam. Sài Gòn, 1959.
10 – D. S. Amalorpavadass, Gospeland Culture, India 1985.
Nguồn: http://www.ubmvgiadinh.org/article/gia-%C4%91%C3%ACnh-vi%E1%BB%87t-nam-m%E1%BA%A3nh-%C4%91%E1%BA%A5t-ph%C3%AC-nhi%C3%AAu-cho-h%E1%BA%A1t-gi%E1%BB%91ng-tin-m%E1%BB%ABng