Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012

MỪNG XUÂN NHÂM THÌN


ĐẠI GIA ĐÌNH NGUYỄN TỘC - AN DU BẮC
KÍNH CHÚC QUÝ BÀ CON THÂN THUỘC
QUÝ BẰNG HỮU VÀ GIA ĐÌNH
MỘT NĂM NH
ÂM TH
ÌN
TR
ÀN 
Đ
ẦY TH
ÁNH 
ÂN V
À PH
ÚC L
ỘC
*

Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2012

Tất niên, cám tạ tình Chúa tình người

J.B. Nguyễn Quốc Tuấn1/16/2012
Năm cũ sắp đi qua với biết bao ân phúc mà Thiên Chúa và tha nhân đã tặng ban cho ta trong suốt những tháng ngày qua. Giữa bao thăng trầm, biến động của lịch sử xã hội, Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương thực thi chương trình huyền nhiệm và kỳ diệu của Người trên đời ta. 



Như Israel xưa được nâng đỡ trên hành trình tiến về Đất Hứa, chúng ta cũng đang được dẫn dắt trong cuộc lữ hành tiến về Vĩnh Cửu dưới ánh sáng của Đức Kitô Phục Sinh (1Cr 1, 3-9). Trong những thời khắc cuối cùng của năm cũ, hiệp với ngôn sứ Isaia, ta hãy hồi tâm suy gẫm và dâng lên Chúa tâm tình cám tạ về tất cả hồng ân đã nhận lãnh.



“Tôi xin nhắc lại ân nghĩa với Đức Chúa, dâng lời ca tụng Đức Chúa, vì tất cả những gì Đức Chúa đã thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của Người đối với nhà Israel, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy thương xót và lắm nghĩa giàu ân” (Is 63, 7). 



1. Tất cả là hồng ân 



Tất cả là hồng ân, vì mọi sự không nằm ngoài bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Có thể ta buồn, ta nuối tiếc và đau xót vì bao kế hoạch đặt ra đang lỡ dở, bao sai lầm trong cách nghĩ, cách làm dẫn đến thảm bại, bao thua thiệt, mất mát to lớn cả vật chất lẫn tinh thần… Nó làm cho ta nhiều khi đã buông lời trách Chúa vì Người đã không theo ý ta. Nó làm cho ta có lúc hoài nghi về quyền năng và tình thương của Chúa. Chúng ta khác nào đoàn dân Israel trong sa mạc, thiếu đi ngọn lửa mến và niềm xác tín tuyệt đối vào chương trình tình thương của Thiên Chúa.



Kinh nghiệm đức tin của Gióp (G 1 – 42) mách bảo cho ta về ân huệ của Chúa. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và dẫn đưa Gióp trên nẻo đường huyền nhiệm mà con người không thể ngờ tới. Con đường ấy hằn sâu những vết chân khổ lụy nhưng nó báo hiệu cho cuộc gặp gỡ toàn vẹn với “Đấng Ẩn Mình” đầy yêu thương và công bằng. 



“Như Gióp xưa, Thiên Chúa vẫn không ngừng săn sóc thăm nom đời tôi, đời bạn và gửi đến cho chúng ta thật nhiều quà tặng vô giá. Đó là tất cả hồng ân dồi dào dành cho chúng ta trong mọi biến cố thường ngày. Có thứ quà tặng ngọt ngào gắn với hạnh phúc trào vui; có thứ quà tặng nhuốm màu đắng cay, chua xót nhưng quý giá vì chất chứa những đánh đổi cho hạnh phúc vĩnh hằng; có thứ quà tặng câm lặng, vô hình đòi hỏi ta phải kiên trì, sáng suốt để nhận ra… Nhiều khi ta đã đã cố tình trách Chúa vì những thứ “quà” không vừa ý riêng. Nhiều khi ta đã đổ lỗi cho Chúa trước những đổ vỡ, đau thương quá lớn, và có khi ta đã đẩy xua, nguyền rủa những nghịch cảnh… Nhận ra chương trình của Chúa trên đời mình, chúng ta hãy đón nhận tất cả như quà tặng dư đầy, phong phú mà Thiên Chúa ưu ái gửi đến cho mỗi người trên hành trình đi tìm hạnh phúc đích thực” (J.B. Nguyễn Quốc Tuấn, Hành trình Đức tin của Gióp)



Tất cả là hồng ân. Năm cũ sắp sửa qua đi, chúng ta khắc cốt ghi tâm biết bao ơn lành mà Thiên Chúa yêu thương gửi đến cho ta, cho người thân của ta và cộng đồng qua bàn tay và con tim tràn đầy yêu thương của bao người xung quanh. Bạn và tôi thử nghĩ xem, nếu những ngày qua, xã hội mà chúng ta đang sống thiếu vắng đi những tâm hồn giàu nặng yêu thương ấy thì thế giới này sẽ thật cô lạnh, vô vị, vô nghĩa, đắng cay biết chừng nào ? ! 



Thật hạnh phúc cho ta biết bao, vì giữa dòng chảy thời gian với những con sóng nghịch cảnh, nghiệt ngã, phũ phàng trào xô, Thiên Chúa vẫn không ngừng đồng hành, nâng đỡ và gửi đến cho ta vô vàn những bàn tay nhân ái không ngại gian khó, âm thầm tận hiến phục vụ chúng ta và đồng loại giữa đời thường. Họ vui tươi, sẵn sàng hy sinh những lợi ích thiết yếu nhất của bản thân để có thể đem lại cho cộng đồng niềm tin, sự sống, hạnh phúc đích thực, cho dẫu rất nhỏ nhoi. Họ dám xả thân trước tệ trạng bất công và mọi hình thức đối xử phi luân để bảo vệ phẩm giá và lợi ích thiêng liêng của con người... Quả thực, dấu chứng cuộc ‘‘thăm viếng’’ của Thiên Chúa vẫn liên tục hiện hữu giữa đời ta.



Tất cả là hồng ân. Cám tạ Chúa đã ban cho ta món quà thời gian gói trọn tất cả những hồng ân vô giá ấy. Cám tạ tình Chúa tình người. Chúng ta càng cảm nghiệm sâu xa hơn ‘‘lời cảm tạ’’ của Thánh Phaolô: ‘‘Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu’’ (1Cr 1, 4).



2. Nhận lãnh để trao ban 



Năm cũ sẽ qua đi nhưng tình Chúa tình người vẫn theo suốt đời ta, cho dẫu ta vô tình lãng quên hay vô ơn trước bao ân thiêng vô giá ấy. Tất niên là thời điểm ý nghĩa và thuận tiện nhất để ta bày tỏ tâm tình tạ lỗi, nhất là để cám tạ tình Chúa tình người. 



Thiên Chúa và anh chị em ta với tình yêu vô lượng, vô vị lợi không đòi hỏi ta phải báo xứng những những hồng ân mà ta đã nhận lãnh. Nhưng Tin Mừng mời gọi ta, nhận lãnh là để trao ban: “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy ban phát nhưng không” (Mt 10, 8). Ân phúc mà chúng ta đón nhận trong suốt năm qua sẽ dư đầy và phát triển dồi dào khi ta biết chia sẻ và tiếp tục tặng ban nó cho những người xung quanh. Cuộc thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét của Đức Maria (Lc 1, 39 – 55) khơi mở cho chúng ta một thái độ đáp trả trọn vẹn và ý nghĩa nhất trước tình Chúa tình người.



Khi đã nhận lãnh “đầy ân phúc” (Lc 1, 28b) từ Thiên Chúa, Đức Maria đã lên đường làm cuộc lữ trình đáp trả tình Trời. Yêu thương, chính là nét nổi bật nhất mà Đức Maria đã đem đến cho nhà Ê-li-sa-bét trong cuộc thăm viếng. Vì yêu thương nên Mẹ đã quan tâm, gặp gỡ, cảm thông, chia sẻ niềm vui, giúp đỡ người chị họ. Không chỉ dừng lại ở đó, Mẹ còn muốn trao ban chính Chúa là Đấng Mẹ đang cưu mang, là Đấng Mẹ đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông sẽ đến cứu chuộc nhân loại. Cao điểm của tình yêu nơi Mẹ, là khi đã được lãnh nhận hồng ân dư đầy từ Thiên Chúa, Mẹ đã không cố giữ lấy cho riêng mình, mà đem phúc cả ấy đến cho người cần được sẻ chia và chung nghiệm hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng. Đây chính là tâm trạng của bà Ê-li-sa-bet trước lời chào của Đức Maria: “Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần…” (Lc 1, 41); và Ê-li-sa-bét đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?”. Đó là đỉnh điểm của hạnh phúc được trao ban.



Sẽ có một năm mới đại hạnh, tràn đầy hồng phúc cho nhân loại, cho gia đình và mỗi người, nếu chúng ta biết xích lại gần nhau hơn, để cùng nhau trao ban tình Chúa tình người. 



Tâm tình của lời kinh “Magnificat” (Lc 1, 46-55) đẹp đẽ, sinh động nhất mà chúng ta có thể thông hiệp với Đức Maria, để tri ân tình Chúa tình người trong suốt năm qua, là thái độ khiêm cung đón nhận tất cả mọi ơn lành, đồng thời nỗ lực sống lời mời gọi yêu thương từ Thiên Chúa trong sứ vụ liên đới mật thiết với tha nhân. 



Vinh Thanh những ngày cuối năm Tân Mão


J.B. Nguyễn Quốc Tuấn

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012

Những Lễ Tết Việt Nam

Lê-Ngọc Châu1/15/2012
Lời mở đầu: Nói đến Tết Việt Nam thì có rất nhiều bậc thức giả, trưởng thượng hiểu rõ nguồn cội, phong tục Tết hơn người sưu tầm. Thêm vào đó vì là một bài tóm lược nên không tránh khỏi thiếu sót, mong quý đọc giả hoan hỉ cho cũng như trân trọng đón nhận sự chỉ giáo của quý vị. 



Tết Nguyên Đán (Tết Cả) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới. Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý (ăn quả nhờ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng ...



* Tết Nguyên Đán có từ bao giờ?



Theo Nguyễn Đình Khang, nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần.



Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm.
Qua nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết.



Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày tết khác nhau.



Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần.
Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười.



Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.



Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc.



Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng bảy.



Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ lễ tiết. Có Tiết Thương Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, TrungThu ... 



Dựa theo tài liệu sưu tầm trên Internet và của trang Web Hà Phương Hoài, chúng tôi lần lượt giới thiệu tóm lược những cái Tết trong năm nói trên:



* Tết Khai Hạ (Mồng bảy tháng giêng)



Người giàu khai hạ, tớ khai bị
Hết rượu cho nên mới ngủ khì (Vô danh)



Tết Khai Hạ có nghĩa là Tết mở đầu một ngày vui để chào đón một ngày Xuân mới. Theo cách bói toán của người xưa thì tuy tháng đầu năm, ngày mồng một ứng vào Gà, mồng Hai: Chó, mồng Ba: Lợn, mồng Bốn: Dê, mồng Năm: Trâu, mồng Sáu: Ngựa, mồng bảy: Người, mồng Tám: Lúa. 



Trong tám ngày đầu năm, hễ ngày nào khô ráo, sáng sủa thì giống nào thuộc về ngày ấy, có năm được tốt. Cho nên, đến ngày mồng bảy thấy trời nắng ráo thì người ta tin rằng cả năm người được mạnh khoẻ, gặp nhiều may mắn tốt lành. Mồng bảy hạ cây nêu để "bế mạc" Tết Nguyên Đán thì người ta mở ngày tết khai hạ để mong mỏi một năm dài tốt lành, vui vẻ.



* Tết Rằm tháng giêng (Tết Thượng Nguyên)



"Lễ vật quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng". Đó là ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới, là Tết rằm tháng giêng hay Tết Thượng Nguyên. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa vì ngày rằm tháng giêng còn là ngày vía Phật tổ Adiđà. Thiện nam, tín nữ đi lễ rất đông.



* Tết Hàn Thực (Mồng ba tháng ba)



Hàn thực có nghĩa là đồ ăn nguội. Gốc Tết này vốn ở Trung Quốc thời Xuân - Thu cổ đại. Tích cũ kể: Vua Văn Công nhà Tấn khi gặp cảnh long đong hoạn nạn được người hiền sĩ Giới Từ Thôi hết lòng phù hộ. Khi vua Văn Công đói quá, Giới cắt thịt đùi mình nấu cháo dâng vua ăn. Trải qua 19 năm trời nay trú Tề, mai náu Sở, một ngày Văn Công lại về làm vua Tấn. Mọi người có công giúp vua đều được ban thưởng nhưng rủi thay vua lại quên mất Giới Từ Thôi đang cùng mẹ ở ẩn trong núi Điền Sơn. Khi vua Tấn nhớ ra, cho người vào tìm, mời mãi Giới không chịu rời núi. Vua bèn cho đốt rừng, hy vọng Giới sẽ ra, nhưng Giới Tử Thôi đã cùng mẹ già chịu chết cháy trong đó. Vua vô cùng thương xót Giới, cho lập đền thờ trên núi. Và cứ mỗi năm vào ngày mồng ba tháng ba, ngày giỗ Giới, có nước lại tổ chức cúng ông. Hôm đó, kiêng đốt lửa, ăn thì dùng đồ nguội đã nấu sẵn từ hôm trước.



Từ thời Thăng Long Đại Việt, nhân dân ta đã ăn Tết này. người ta làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội, cúng gia tiên là chính, chứ ít ai biết đến ông Giới Từ Thôi.



* Tiết Thanh Minh (Mồng chín tháng ba)



Thanh minh trong tiết tháng ba 
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. Nguyễn Du



Thanh minh có nghĩa trời độ ấy mát mẻ quang đãng. Ta cũng nhân dịp ấy mà đi thăm mộ những người trong dòng họ đã mất. Tết thanh minh là lễ tảo mộ. Đi thăm mộ thấy có rậm thì phát quang đất khuyết thì bồi đắp, rồi về nhà thắp hương cúng gia tiên.



* Tết Đoan Ngọ Mồng 5 Tháng 5 



Còn gọi là Tết Đoan Dương cho nên mới có câu thơ:



Chưa ăn bánh tết Đoan Dương 
Áo bông chẳng dám khinh thường cởi ra.



Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được coi trọng, xếp vào hàng thứ hai sau Tết Nguyên Đán. Vì vậy các cụ thường nói "Mồng 5 ngày Tết". Học trò tết thầy, còn rể tết bố mẹ vợ... quanh năm cũng chỉ tập trung vào hai Lễ Tết đó.



* Tết Trung Nguyên (Rằm tháng bảy)



Tiết tháng bảy ma dầm sùi sụt 
Toát hơi mây lạnh buốt xương khô Nguyễn Du 



Tết rằm tháng bảy có tên khác là Tết Trung Nguyên, người xưa gọi là ngày "xá tội vong nhân". Do đó vào ngày này, tại các chùa thờ phật thường làm chay chân tế và cầu kinh Vu Lan. Còn các nhà thì bày cỗ cúng gia tiên, đốt vàng mã và các đồ dùng bằng vàng mã để người ở âm ty dùng.



* Tết Trung Thu (Rằm tháng tám)



Tết của trẻ con nhưng người lớn cũng gặp nhau để trà, tửu, ngâm thơ, ngắm trăng gọi là "thưởng nguyệt". Cổ thưởng nguyệt (trông trăng) có chiếc bánh nướng hình trăng tròn, bưởi, hồng và nhiều thứ hoa quả khác. Đáng chú ý là các đồ chơi của các em như tiến sĩ giấy, voi, đèn kéo quân, ngựa hồng, các loại mặt nạ, đèn ông sao .... và tối đến trước khi phá cỗ là trò chơi múa rồng, múa sư tử, xem đèn kéo quân.



* Tết Trùng Cửu (Mồng chín tháng chín)



Tết này có nguồn gốc ở Trung Quốc, ra đời vào thời kỳ thịnh hành của đạo Lão. Chuyện xưa kể rằng: có người tên là Hoàn Cảnh muốn học được phép tiên. Học mãi đến ngày cuối cùng thì thầy bảo hãy may mỗi người một cái túi, hái hoa cúc bỏ vào rồi lên núi ẩn náu. Quả nhiên ngày hôm ấy, mồng chín tháng chín mưa to, ngập hết cả mặt đất. người chết đuối rất nhiều, còn gia đình Hoàn Cảnh thì vẹn nguyên.
Thời kỳ Lý - Trần, nho sĩ Việt Nam theo tích đó cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương. Bây giờ ít có nơi tổ chức tết trùng cửu.



* Tết Trùng Thập (Mồng mười tháng mời)



Tết này các ông thày thuốc thường làm rất lớn. Theo sách cổ Dược lễ thì vào mồng mười tháng mười, các thầy thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời (xuân-hạ-thu-đông) và dùng thật tốt. Ở nông thôn gọi là Tết Cơm Mới, có bánh dày, chè kho, gà luộc dùng cúng tổ tiên mừng được mùa lúa.



* Tết ông Táo (Tết hai mươi ba tháng chạp)



Tương truyền là ngày ông Táo (Táo quân, vua bếp) lên chầu trời để tâu việc làm ăn cả xứ của mỗi gia đình với Ngọc Hoàng. Chuyện cũ kể rằng: Xưa có hai vợ chồng vì nghèo quá phải bỏ nhau. Sau người vợ lấy được chồng giàu, một hôm đang đốt hàng mã thì thấy một kẻ đến ăn xin. Người vợ nhận ra người ăn xin ấy chính là chồng xưa của mình, thương cảm bèn đem cho rất nhiều gạo thóc, tiền bạc. Người chồng mới nghi ngờ vợ, vợ ức quá đâm đầu vào bếp chết. Thương vợ cũ người ăn xin cũng đâm đầu vào lửa chết theo. Ân hận và đau khổ, người chồng mới cũng nhảy vào bếp lửa đó chết. Thượng đế nghe chuyện thương cảm ba con người có nghĩa kia, bèn phong họ làm vua bếp.



Ca dao cổ có câu:



Thế gian một vợ một chồng 
Chẳng như vua bếp hai ông một bà. 



Theo tích ấy, vào ngày 23 tháng chạp, người ta mua hai mũ đàn ông một mũ đàn bà bằng hàng mã cùng một con cá chép để vua bếp lên chầu trời. Cá chép thường là cá tươi, rất to, khi cúng, cúng cả con ... Và bây giờ mỗi khi vẽ ông Táo, người ta thường vẽ ông đội mũ cỡi cá bay trong mây, nhưng rất tiếc lại không có .... quần.



Bởi vậy mới có bài thơ vui: 



Hăm ba ông táo dạo chơi xuân 
Đội mũ mang hia chẳng mặc quần 
Thượng đế hỏi rằng sao chướng vậy 
Tâu rằng: Hạ giới nó duy tân. 



Ông Táo hay thần bếp là người mục kích sự làm ăn của mọi nhà. Theo tập tục hàng năm ông Táo phải thu xếp lên trời vào ngày 23 tháng chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế cho nên, trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm đạm bạc tiễn đưa "ông Táo ". Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên Đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết.



Cùng với tranh, hoa quả là yếu tố tinh thần cao quý thanh khiết của người Việt Nam trong những ngày đầu xuân. Miền Bắc có hoa Ðào, miền Nam có hoa Mai, hoa Ðào, hoa Mai tượng trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình người Việt Nam. Ngoài cành Ðào, cành Mai, mấy ngày Tết người ta còn "chơi" thêm cây Quất chi chít trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc...



Tết trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các thứ bành trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả ở miền Bắc thường gồm có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quít), hồng, quất. Còn ở miền Nam, mâm ngũ quả là dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng trưng cho ý niệm khát khao của con người vì sự đầy đủ, sung túc. 



Và sau cùng, chúng tôi xin giới thiệu đến quý thính giả ý nghĩa Tết Nguyên Đán và những nét đặc thù của ngày Lễ Tết này:



* Tết Nguyên Đán 



Ngày Tết ở đây tức là nói tắt Lễ Tiết Nguyên Đán (ngày đầu năm), còn gọi là Tết Cả vì thế to nhất.
Các Lễ Tết trên có nơi tổ chức có nơi không, với nhiều hình thức nội dung khác nhau. Còn Lễ Tết Nguyên Đán thì khắp nơi trong cả nước, từ đầu núi đến cuối sông, từ thành thị đến nông thôn, từ biên cương đến hải đảo đều tổ chức gần giống nhau. Chỉ khác nhau ở mức sang hèn của từng gia đình hay các loại hoa quả, bánh trái, cơm nước của từng vùng, miền.



Tết Nguyên Đán trước hết là Tết của gia đình. Theo tập quán, dầu ai bất cứ ở đâu, làm bất cứ nghề gì, hàng năm mỗi khi Tết đến cũng mong muốn tha thiết được trở về nhà sum họp gia đình trong ba ngày Tết. Tết Việt Nam là ngày nhớ nhau, ngày hội đoàn tụ, đoàn viên ấm cúng.



* Ngày Tết có những phong tục gì?



Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ... Từ trẻ tới già ai ai cũng biết, sau đây là một vài phong tục đáng được duy trì phát triển:



Tống cựu nghênh tân: Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, lau giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng. 



Con cháu trong nhà từ phút giao thừa trở đi được nhắc nhở là không được nghịch nghợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy... anh chị, cha mẹ cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở, chúc nhau những điều tốt lành.



Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xoá hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành.



Hái lộc, xông nhà, chúc Tết, mừng tuổi: Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm cũ. Nhiều nhà tự đi hái lộc ở chốn đình chùa, nơi tôn nghiêm về nhà, tự xông nhà hay dặn trước người "nhẹ vía" mà mình thích đến xông nhà. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay lại đổ tại mình "nặng vía". Chính vì vậy, sáng mùng Một ít khách.



Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà cha mẹ. Ông bà cũng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc Tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc. Nhìn chung trong những ngày đầu năm, người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa.



Phong tục ta ngày Tết biếu quà, tỏ ân nghĩa tình cảm, học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà biếu v..v…



Lễ mừng thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần... Ngày Tết cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.



Cũng vào dịp đầu Xuân, người có chức tước khai ấn, học trò, sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, người buôn bán mở hàng lấy ngày. Sĩ, Nông, Công, Thương "Tứ dân bách nghệ" của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thông, làm ăn suôn sẻ. Sau ngày mùng Một, dù có mải vui tết cũng chọn ngày "Khai nghề", "Làm lấy ngày". Nếu như mùng Một tốt thì chiều mùng Một bắt đầu. Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày tốt hay xấu. 



Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết, nhất là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì người bố cho phép vui chơi. Tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy. Ðến lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm ….



Vì sao có tục kiêng hốt rác đổ đi trong ba ngày Tết: Trong "Sưu thần ký" có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thuỷ thần cho một con hầu tên là Như Nguyên, đem về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mùng Một Tết, Âu Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không hốt rác ngày Tết cũng vì sự tích này.



Trên đây là điểm qua mười một lễ Tết trong năm. 



Cũng có rất nhiều vần thơ ”trào phúng” liên quan đến Tết Nguyên Đán. Tôi từng nghe quý cụ nói "mỗi người Việt là một thi sĩ". Thật vậy, người Việt Nam chúng ta hầu như ai cũng có tâm hồn thi sĩ, không nhiều thì ít và chuyện gì cũng làm thơ được, đặc biệt cho ngày Tết thì vô số ... nhưng tôi chỉ giới thiệu với quý đọc giả vài bài tiêu biểu:



* Năm hết Tết đến, bài thơ sau đây phản ảnh rõ nét những chuyện xảy ra trong năm:



Một năm chia mười hai kỳ 
Thiếp ngồi thiếp tính làm gì chẳng ra 
Tháng giêng ăn Tết ở nhà 
Tháng hai rõi rãi quay ra nuôi tằm. 
Tháng ba đi bán vải thâm 
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về. 
Tháng sáu em đi buôn chè 
Tháng bảy tháng tám trở về đong ngô. 
Chín mười cắt rạ đồng mùa 
Một chạp vớ được anh đồ dài lưng. 
Anh ăn, rồi anh lại nằm. 
Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền. 
Chẳng thà lấy chú lực điền 
Gạo bồ thóc đống, còn phiền nỗi chi!



* Mượn Tết để làm bài thơ tả tình, tả chân về người đàn bà 



“Đàn bà như hạt mưa sa, mưa đâu mát đấy ….” như bài thơ kế tiếp thì “quá tuyệt”:



Tháng giêng là tiết mưa xuân 
Tháng hai mưa bụi dần dần mưa ra 
Đàn bà như hạt mưa sa
Mưa đâu mát đấy biết là đâu hơn. 
Tháng năm, tháng sáu mưa trận mưa cơn 
Bước sang tháng bảy rập rờn mưa ngâu
Thương thay cho vợ chồng Ngâu 
Cả năm chỉ mới gặp nhau một lần.... 



* Cuối cùng, bài thơ ngắn sau đây cho ta thấy hạnh phúc, quan hệ vợ chồng rất quan trọng…



Tháng chạp là tháng trồng khoai 
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà. 
Tháng ba cày vỡ ruộng ra 
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng. 
Ai ơi cùng vợ cùng chồng 
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay!



2012 là Năm Con Rồng. Để kết thúc bài giới thiệu tổng quát về Tết, như là một hình thức "Tống Cựu Nghinh Tân" (tiễn đưa năm Tân Mão, chào đón Nhâm Thìn) người viết xin được trích dẫn vài câu ca dao sưu tầm theo truyền khẩu nhân gian. 



Thay cho lời tỏ tình một cách khéo léo, người đời đã mượn "Rồng" làm cảnh: 



Tình cờ đó lại gặp đây, 
Như cá gặp nước như mây gặp rồng



Hay phản ảnh sự trêu ghẹo lãng mạn của đàn ông :



Rồng giao đầu, Phụng giao đuôi
Gặp nhau hỏi thiệt, em có thương tui nói liền ?



Diễn tả nỗi mơ ước thầm kín của người phụ nữ:



Thiếp như cá ở biển đông
Chờ khi nước cạn hóa rồng lên mây
Phải chi anh có phép thần thông
Ngăn mây cưỡi gió, bắt rồng cưỡi chơi !



hoặc để ví von "sự quan hệ giữa vợ chồng":



Vợ có chồng như Rồng có mây
Chồng có vợ như cây có rừng!



(Nam Đức_Cuối Năm Tân Mão 2011)

* Tài liệu tham khảo: 
- Ca dao sưu tầm theo truyền khẩu nhân gian.
- Internet, Trang Web Hà Phương Hoài


Lê-Ngọc Châu

Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

Thư Ngỏ của các Vị Lãnh Đạo Tôn Giáo Hoa Kỳ về Hôn Nhân và Tự Do Tôn Giáo

Phaolô Phạm Xuân Khôi1/13/2012
Hôn nhân và Tự do Tôn Giáo: Sự Tốt Lành Cơ Bản Là Hai Điều cùng nhau Đứng Vững hay Sụp Đổ. 



Các Nhà Lãnh Đạo Tôn Giáo Cùng Nhau Liên Kết trong việc Hỗ Trợ Hôn Nhân và Tự Do Tôn Giáo 

Hoa Thịnh Đốn (ngày 12 tháng 1, 2012) - Các nhà lãnh đạo của một số cộng đồng tôn giáo lớn nhất tại Hoa Kỳ đã cùng nhau liên kết trong một thư ngỏ gửi tất cả mọi người Hoa Kỳ để nói lên mối quan tâm chung của họ về hôn nhân và tự do tôn giáo.... Những vị ký tên gồm có các nhà lãnh đạo Anh giáo, Baptist, Công giáo, Truyền Đạo, Do Thái, Lutheran, Mormon, và cộng đồng Pentacost ở Hoa Kỳ. Đức Hồng Y được chỉ định Timothy Dolan, tổng giám mục New York và chủ tịch của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ, là một trong bốn giám mục Công giáo ký tên. Dưới đây là bản dịch Thư Ngỏ được đăng trong trang web của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ bằng tiếng Anh.



THƯ NGỎ



Các bạn thân mến:



Việc cổ võ và bảo vệ hôn nhân – sự kết hợp của một người nam và một người nữ như hai vợ chồng -- là một vấn đề công ích và phục vụ hạnh phúc của cặp vợ chồng, của con cái, của xã hội dân sự và mọi người. Ý nghĩa và giá trị của hôn nhân có trước và vượt trên bất kỳ xã hội, chính phủ, hoặc cộng đồng cụ thể nào. Nó là một ích lợi phổ quát và cơ chế nền tảng của tất cả mọi xã hội. Nó đi liền với bản chất của con người như nam và nữ, và với nhiệm vụ quan trọng là cưu mang và nuôi dưỡng con cái. 



Như những nhà lãnh đạo tôn giáo của nhiều cộng đồng đức tin khác nhau một cách rộng rãi, chúng tôi liên kết cùng nhau để khẳng định rằng hôn nhân trong định nghĩa thật sự của nó phải được bảo vệ vì chính nó và vì lợi ích của xã hội. Chúng tôi cũng nhận ra những hậu quả nghiêm trọng của việc thay đổi định nghĩa này. Một trong những hậu quả -- là sự can thiệp vào quyền tự do tôn giáo của những người tiếp tục xác tín định nghĩa thực sự của “hôn nhân” – đòi hỏi sự chú ý đặc biệt trong các cộng đồng đức tin của chúng ta và trong toàn xã hội nói chung. Vì lý do này, chúng tôi cùng liên kết với nhau để nói lên với một tiếng nói duy nhất trong thư ngỏ này.



Một số người cho rằng mối đe dọa chính đối với tự do tôn giáo gây ra bởi “hôn nhân” đồng tính là việc chính quyền có thể bắt buộc các thừa tác viên tôn giáo phải chủ sự “những lễ cưới” như vậy. nếu không họ sẽ vi phạm luật dân sự hoặc hình sự. Trong khi chúng ta không thể hoàn toàn loại trừ tình trạng có thể xảy ra này, chúng tôi tin rằng Tu Chính Thứ Nhất (First Amendment) tạo ra một trở ngại rất cao cho một nỗ lực như thế. 



Thay vào đó, chúng tôi tin rằng nguy cơ cấp bách nhất là điều này: sự ép buộc hay áp lực trên những cá nhân và tổ chức tôn giáo – trong mọi hoạt động của họ, ngoài các nghi lễ về tôn giáo -- phải coi các hành vi tình dục đồng tính tương đương về luân lý với hành vi tính dục trong hôn nhân. Chắc chắn rằng nhiều người và nhiều nhóm mà xác tín luân lý và tôn giáo của họ không cho phép các hành vi tình dục đồng tínhi sẽ chống lại sự cưỡng bách của pháp luật, và những cuộc xung đột giữa giáo hội và nhà nước sẽ xảy ra. 



Những xung đột này sẽ có những hậu quả trầm trọng. Chúng sẽ xảy ra trong hàng loạt những phạm vi pháp lý rộng rãi, bởi vì thay đổi định nghĩa dân sự của “hôn nhân” không chỉ thay đổi một điều luật, nhưng cùng một lúc thay đổi hàng trăm, thậm chí hàng ngàn điều luật. Bằng một chữ ký, mọi luật lệ mà trong đó những quyền lợi tùy thuộc vào tình trạng hôn nhân -- như kỳ thị việc làm, trợ cấp thất nghiệp, nhận con nuôi, giáo dục, y tế, chăm sóc những người cao niên, gia cư, tài sản, và thuế má -- sẽ thay đổi để những quan hệ tình dục đồng tính phải được đối xử như là chúng là hôn nhân. Lần lượt, đòi hỏi này sẽ áp dụng cho những người và những nhóm tôn giáo trong cách cư xử bình thường trong nhiều nghề nghiệp và việc phục vụ tư hoặc công, bao gồm cả việc điều hành các trường học, bệnh viện, nhà dưỡng lão và các cơ sở gia cư khác, cung cấp các dịch vụ nhận con nuôi và tư vấn, cùng nhiều việc khác. 



Như vậy, thí dụ, dịch vụ nhận con nuôi theo tôn giáo mà trong đó trẻ em được trao đặc biệt cho các cặp vợ chồng sẽ bị bắt buộc theo pháp luật phải trao cho những người đồng tính đã “kết hôn” theo dân sự. Những nhà tư vấn hôn nhân tôn giáo sẽ bị từ chối cấp bằng hành nghề chuyên môn của họ vì họ từ chối giúp đỡ làm tư vấn trong những liên hệ “kết hôn” đồng tính. Các chủ nhân tôn giáo cung cấp những ích lợi về sức khỏe (bảo hiểm) đặc biệt cho nhân viên kết hôn sẽ bị bắt buộc theo luật pháp phải mở rộng những lợi ích ấy cho những ‘người phối ngẫu” đồng tính. Các chủ nhân tôn giáo sẽ phải đương đầu với những vụ thưa kiện vì có bất kỳ hành vi chống lại, dù nhẹ nhàng thế nào đi nữa, với một nhân viên vì người ấy công khai “làm đám cưới” dân sự với người đồng phái tính. Điều này không phải là phỏng đoán vô cớ, vì những trường hợp như thế đã xảy ra. 



Ngay cả khi những người và các nhóm tôn giáo thành công trong việc tránh trách nhiệm dân sự trong các trường hợp như thế, họ còn phải đương đầu với những trừng phạt khác của chính phủ -- như trở thành mục tiêu rút lại sự hợp tác, trợ cấp, hoặc các lợi ích khác của chính phủ. 



Thí dụ, ở New Jersey, tiểu bang hủy bỏ tình trạng được miễn thuế của một nhà lều dọc bờ biển (boardwalk pavilion) được điều hành bởi giáo phái Methodist trong các dịch vụ tôn giáo bởi vì tổ chức tôn giáo này không nhận cho làm “đám cưới” đồng tính ở đó. San Francisco hủy bỏ 3,5 triệu đô la hợp đồng dịch vụ xã hội với Salvation Army bởi vì họ từ chối công nhận “quan hệ chung thân” đồng tính trong các chính sách về quyền lợi nhân viên của họ. Tương tự, Portland, Maine, đòi hỏi các tổ chức từ thiện Công Giáo phải mở rộng quyền lợi nhân viên vợ chồng cho “những cặp chung thân” đồng tính như một điều kiện tiếp nhận trợ cấp của quỹ quỹ phát triển gia cư và cộng đồng của thành phố. 



Tóm lại, sự từ chối của các tổ chức tôn giáo này trong việc coi một liên hệ tính dục đồng tính như hôn nhân đánh dấu họ và các thành viên của họ là cuồng tín, biến họ thành đối tượng của một kho đầy các hình phạt và áp lực của chính quyền dành cho những kẻ kỳ thị chủng tộc. Những hình phạt này sẽ chỉ gia tăng cách thường xuyên hơn và nghiêm khắc hơn nếu “hôn nhân” dân sự được tái định nghĩa trong những phạm vi tài phán khác nữa. Vì khi đó, chính quyền sẽ bắt buộc mọi người phải công nhận đặc biệt những quan hệ mà chúng tôi, những nhà lãnh đạo tôn giáo ký tên dưới đây, và các cộng đồng đức tin mà chúng tôi đại diện, không thể phê chuẩn, theo lương tâm. Bởi vì luật pháp và chính quyền không những chỉ ép buộc và khuyến khích bằng phần thưởng mà còn giảng dạy (ở học đường), những sự thừa nhận này sẽ làm cho những nỗ lực của các tư nhân tư nhân muốn trừng phạt những người bảo vệ hôn nhân thành một sự hợp pháp hơn về luân lý. 



Vì vậy, chúng tôi khuyến khích tất cả mọi người thiện tâm hãy bảo vệ hôn nhân như sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, và cân nhắc cẩn thận những hậu quả sâu rộng đối với quyền tự do tôn giáo của tất cả mọi người Hoa Kỳ nếu hôn nhân bị tái định nghĩa. Chúng tôi đặc biệt thúc dục những người có trách nhiệm với ích lợi chung hãy hỗ trợ những đạo luật duy trì định nghĩa truyền thống của hôn nhân, và như thế tránh được mối đe dọa sự tự do tôn giáo của vô số tổ chức và công dân trong quốc gia này. Hôn nhân và tự do tôn giáo cả hai đã được đan kết một cách sâu xa vào cơ cấu của quốc gia này. 



Chớ gì tất cả chúng ta có thể làm việc với nhau để củng cố và bảo tồn ý nghĩa duy nhất của hôn nhân và món quà quý giá của tự do tôn giáo. 



Trọng kính:



Rev. Leith Anderson



President



National Association of Evangelicals



Johann Christoph Arnold



Senior Pastor



Bruderhof Communities



Randall A. Bach



President



Open Bible Churches



Dr. Gary M. Benedict



President



The Christian and Missionary Alliance



The Rev. John F. Bradosky



Bishop



North American Lutheran Church



Glenn Burris, Jr. 



President



The Foursquare Church



Bishop H. David Burton



Presiding Bishop



The Church of Jesus Christ of Latter-day Saints



Dr. Ronald W. Carpenter, Sr. 



Presiding Bishop



International Pentecostal Holiness Church



Rabbi Abba Cohen



Vice President for Federal Affairs



Washington Director



Agudath Israel of America



Most Rev. Salvatore J. Cordileone



Bishop of Oakland



Chairman



USCCB Subcommittee for the Promotion and Defense of Marriage



Nathan J. Diament



Executive Director for Public Policy



Union of Orthodox Jewish Congregations of America



Cardinal-designate Timothy M. Dolan



Archbishop of New York



President



United States Conference of Catholic Bishops



The Most Rev. Robert Duncan



Archbishop, Anglican Church in North America



Bishop, Anglican Diocese of Pittsburgh



Dr. Barrett Duke



Vice President for Public Policy and Research



Southern Baptist Ethics & Religious Liberty Commission



Rev. Jim Eschenbrenner



Executive Pastor



General Council of Christian Union Churches



Dr. William J. Hamel



President



Evangelical Free Church of America



Rev. Dr. Ron Hamilton



Conference Minister



Conservative Congregational Christian Conference



Rev. Dr. Matthew Harrison



President



Lutheran Church - Missouri Synod



John Hopler



Director



Great Commission Churches



Dr. Bill Hossler



President



Missionary Church, Inc. 



Clyde M. Hughes



General Overseer



International Pentecostal Church of Christ



Rev. Kenneth D. Hunn



Executive Director



The Brethren Church



David W. Kendall



Bishop



Free Methodist Church USA



Dr. Richard Land



President



Southern Baptist Ethics & Religious Liberty Commission



Most Rev. William E. Lori



Bishop of Bridgeport



Chairman



USCCB Ad Hoc Committee for Religious Liberty



Dr. Jo Anne Lyon



Chair Board of General Superintendents



The Wesleyan Church



James W. Murray



Executive Director



General Association of General Baptists



Most Rev. Kevin C. Rhoades



Bishop of Ft. Wayne - South Bend



Chairman



USCCB Committee on Laity, Marriage, Family Life and Youth



Commissioner William A. Roberts



National Commander



The Salvation Army



Rocky Rocholl



President



Fellowship of Evangelical Churches



Rev. Samuel Rodriguez



President



National Hispanic Christian Leadership Conference



David T. Roller



Bishop



Free Methodist Church USA



Matthew A. Thomas



Bishop



Free Methodist Church USA



Dr. Joseph Tkach



President & Pastor General



Grace Communion International



Berten A. Waggoner



National Director



Vineyard USA



W. Phillip Whipple



Bishop



United Brethren in Christ Church, USA



Dr. John P. Williams, Jr. 



Regional Director



Evangelical Friends Church, North America



David P. Wilson



General Secretary



Church of the Nazarene



Dr. George O. Wood



General Superintendent



Assemblies of God