Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2011

Thông Điệp Giáng Sinh Urbi et Orbi

J.B. Đặng Minh An dịch12/26/2011

Anh chị em tại Rôma và trên toàn thế giới thân mến,


Chúa Kitô đã sinh ra cho chúng ta!



Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho những người nam nữ Chúa thương. Cầu xin cho tất cả mọi người nghe được tiếng vang của thông điệp Bethlehem mà Giáo Hội Công Giáo lặp lại trên khắp cùng bờ cõi trái đất, vượt qua tất cả biên giới của quốc gia, ngôn ngữ và văn hóa. Người Con của Đức Nữ Đồng Trinh Maria được sinh ra cho mỗi người; Ngài là Đấng Cứu Độ cho tất cả mọi người.



Chúa Kitô đã được kêu cầu đến như thế này trong điệp xướng của Phụng Vụ trước đây: “Lạy Emmanuel là đức vua, là thẩm phán, là hy vọng và là ơn cứu độ của mọi dân nước: hãy đến cứu chúng con, Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con”. Veni ad salvandum nos! Hãy đến cứu chúng con! Đây là tiếng kêu từ những người nam nữ của mọi thời đại, là những người cảm nhận được là tự chính mình họ không thắng nổi những khó khăn và hiểm nguy. Họ cần đặt để tay mình trong lòng một bàn tay lớn mạnh hơn, một bàn tay vươn đến họ từ trời cao thăm thẳm. 



Anh chị em thân mến, bàn tay này là Chúa Kitô, Đấng được sinh ra tại Bethlehem bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria. Ngài là đôi tay mà Thiên Chúa vươn đến nhân loại, để kéo chúng ta ra khỏi vũng lầy của tội lỗi và đặt để chúng ta vững vàng trên đá tảng, là phiến đá an toàn của Chân Lý và tình yêu của Ngài (x. Tv 40:2). 



Đây là ý nghĩa danh xưng của Hài Nhi, là tên mà theo Thánh Ý Chúa, Đức Maria và Thánh Giuse đã đặt cho Ngài: Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là “Đấng Cứu Độ”, (x. Mt 1:21; Lk 1:31). Ngài được sai đến bởi Thiên Chúa Cha để cứu thoát chúng ta trên hết là từ sự dữ đã đâm rễ sâu nơi nhân loại và trong lịch sử: là tội lỗi xa cách Thiên Chúa, là thói ngạo mạn tự cho mình là đủ, hay dám tranh đua với Thiên Chúa để thay thế địa vị Ngài khi phân xử điều gì là thiện điều gì là ác, hay khi cả gan muốn trở thành đấng nắm quyền sinh tử (x. Sáng Thế 3:1-7) Đó là sự ác lớn nhất, là tội lỗi nghiêm trọng nhất mà nhân loại chúng ta tự mình không thoát ra nổi trừ khi là chúng ta trông cậy vào ơn phù trợ của Thiên Chúa, trừ khi là chúng ta kêu cầu đến Ngài: “Veni ad salvandum nos! Hãy đến cứu chúng con!” 



Chính việc chúng ta kêu thấu đến trời như thế đã đưa chúng ta trở về đường ngay, làm cho chúng ta trở nên trung thực với chính mình: chúng ta thực là những người đã kêu cầu Thiên Chúa, và đã được giải thoát (x. Esth [LXX] 10:3ff.) Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ; chúng ta là những kẻ sa đoạ. Ngài là bác sĩ; chúng ta là con bệnh. Nhận thức ra điều này là bước đầu tiên hướng đến ơn cứu độ, hướng đến việc thoát ra khỏi vũng lầy giam hãm chúng ta vì cái thói tự cao tự đại của mình. Hướng đôi mắt chúng ta lên trời cao, và vươn đôi tay chúng ta ra kêu cầu sự trợ giúp là cách thế giải thoát chúng ta với điều kiện là phải có một Đấng nào đó lắng nghe chúng ta và đến giúp chúng ta.



Chúa Giêsu Kitô là bằng chứng rằng Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu cứu của chúng ta. Và không chỉ có thế mà thôi! Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta mạnh đến mức Ngài không thể thờ ơ được nữa; Ngài vượt ra khỏi chính Ngài để bước vào giữa chúng ta để chia sẻ đầy đủ thân phận nhân loại với chúng ta (x. Xuất Hành 3:7-12). Đáp trả của Thiên Chúa trước tiếng kêu cầu của chúng ta nơi Chúa Giêsu vượt xa tít tắp những trông đợi của chúng ta, hoàn tất nơi một tình liên đới không chỉ giữa nhân loại, mà còn là với thần thánh. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, và tình yêu là Thiên Chúa, mới có thể chọn cách thế cứu chúng ta như thế, một cách thế chắc chắn là dài nhất, nhưng đó là cách thế tôn trọng sự thật về Ngài và về chúng ta: là cách thế hòa giải, đối thoại và hợp tác. 



Anh chị em tại Rôma và trên toàn thế giới thân mến,



Trong ngày lễ Giáng Sinh 2011 này, chúng ta hãy hướng đến Hài Nhi Bethlehem, Người Con của Đức Nữ Đồng Trinh Maria và thân thưa rằng: “Hãy đến cứu chúng con!” Chúng ta hãy lặp lại những lời này trong sự hiệp nhất tinh thần với đông đảo những ai đang phải đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn nhất định; chúng ta hãy nói thay cho những ai không có tiếng nói. 



Cùng nhau chúng ta hãy khẩn cầu ơn phù trợ của Thiên Chúa cho các dân tộc trong vùng Sừng Phi Châu, là những người đang phải gánh chịu nạn đói và khan hiếm thực phẩm, tích lũy bởi một tình trạng bất an kéo dài. Cầu xin cho cộng đồng quốc tế đừng quên đưa ra những trợ giúp cho những người di tản khỏi những vùng này và là những người mà nhân phẩm của họ đã bị thách thức nghiêm trọng. 



Xin Thiên Chúa ban ơn ủi an cho các dân tộc vùng Đông Nam Á, đặc biệt là tại Thái Lan và Phi Luật Tân, là những người gánh chịu những khó khăn trầm trọng vì hậu quả của những trận lụt gần đây. 



Xin Chúa đến giúp thế giới của chúng ta đã tan nát vì quá nhiều những cuộc xung đột mà ngay cả ngày hôm nay cũng làm đang làm thế giới vấy máu. Cầu xin Hoàng Tử Bình An ban hòa bình và ổn định cho vùng đất nơi Ngài đã chọn để đến trong thế gian này, và khích lệ việc tái tục cuộc đối thoại giữa những người Do Thái và Palestine. Xin Ngài chấm dứt bạo lực tại Syria, nơi quá nhiều máu đã đổ. Xin Ngài ban ơn hòa giải và ổn định cho Iraq và A Phú Hãn. Xin Ngài canh tân ý chí cho các thành phần xã hội tại các nước ở Mỹ Châu và Trung Đông khi họ đang cố thăng tiến thiện ích chung. 



Cầu xin cho việc hạ sinh của Đấng Cứu Độ nâng đỡ những khả năng đối thoại và hợp tác tại Miến Điện trong khi theo đuổi những giải pháp chung. Xin cho biến cố Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế bảo đảm sự ổn định chính trị cho những quốc gia trong vùng Đại Hồ Phi Châu, và trợ giúp dân chúng Nam Sudan trong dấn thân bảo vệ quyền lợi của tất cả các công dân. 



Anh Chị Em thân mến, chúng ta hãy lại hướng mắt đến hang đá Bethlehem. Hài Nhi chúng ta đang chiêm ngắm là ơn cứu độ của chúng ta! Ngài đã mang đến thế giới một thông điệp phổ quát của hòa giải và hòa bình. Chúng ta hãy mở tâm hồn ra với Ngài; chúng ta hãy đón nhận Ngài vào trong tâm hồn chúng ta. Một lần nữa chúng ta hãy thưa với Ngài với niềm vui và lòng cậy trông: “Veni ad salvandum nos!”



+ Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

Con Không Có Lời Ru



*

Herode Vẫn Còn Sống?


HERODE VẪN CÒN SỐNG ?

Suy Niệm Lời Chúa Lễ các Thánh Anh Hài

Thánh Gioan viết trong thư thứ nhất: “Thiên Chúa là sự sáng và nơi Người không có sự tối tăm nào.” (1 Ga 1, 5). Sự sáng này không là sự sáng của vũ trụ tự nhiên hay khoa học, nhưng là sự sáng của bản tính Thiên Chúa: Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ. Bước đi trong ánh sáng của Thiên Chúa là chấp nhận sống theo Sự Thật tuyệt đối, lòng thiện tuyệt hảo và mặc lấy vẻ đẹp siêu nhiên tuyệt vời của Thiên Chúa. Bởi vậy, người đón nhận ánh sáng của Thiên Chúa thì tuyệt giao với bóng tối của gian dối, sự dữ và những gì là xấu xa. Ánh sáng và bóng tối không thể song hành trong cùng một con người đã tin nhận Thiên Chúa.

Những lời dạy của Thánh Gioan trong ngày lễ kính các Thánh Anh Hài làm cho chúng ta nhớ đến một con người gian dối: Herode, miệng nói điều tốt lành mà lòng chất chứa bao điều ác độc. Ông nói với các Đạo sĩ: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để Trẫm cùng đến triều bái Người” (Mt 2, 8). Nghe có vẻ có đức tin lắm, thành khẩn lắm, nhưng thực ra những mỹ từ ấy đang che giấu bao toan tính ác độc trong lòng. Những người ngay lành như các mục đồng, các Đạo sĩ thì tìm gặp Hài Nhi để triều bái, tôn vinh, ca tụng Thiên Chúa. Còn người không có ý ngay lành như Herode thì muốn gặp Hài Nhi để bách hại, giết chết, tru diệt mầm mống của vương quyền mới mà ông cho là sẽ chiếm đoạt ngôi vị độc tôn của mình. Thiên Chúa đã không cho ông được diễm phúc gặp được Hài Nhi, Con của Ngài, vì Thiên Chúa biết rõ lòng dạ của ông đang những mưu toan tối tăm của ma quỷ. Và xảy ra là ông đã ra lệnh giết tất cả con trẻ từ hai tuổi trở xuống ở Belem và vùng phụ cận, may ra, trong số ấy, có Hài nhi là Con Thiên Chúa.

Thưở xa xưa, khi tiên tri Giêrêmia nói: “Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa” (Mt 2,18) (Gr 31, 15), thì có lẽ chẳng ai hiểu được gì về sấm ngôn đau thương này. Nhưng hôm nay, ngày đau thương ấy đã đến: biết bao người Mẹ đau đáu đoạn trường nhìn những đứa con chết thảm do lòng ác độc của người chống lại Thiên Chúa gây ra.

Herode hình như vẫn còn sống trong thời đại chúng ta? Có thể chính chúng ta cũng đang là một Herode mới trong những ngày này? Vâng, điều ấy không sai, mỗi khi chúng ta không bước đi trong ánh sáng chân thiện mỹ của Thiên Chúa mà lại bằng lòng sống trong bóng tối của sự gian ác, theo sự điều khiển của ma quỷ là phủ nhận Thiên Chúa, phủ nhận quyền năng và tình thương của Ngài, không chấp nhận Ngài cứu rỗi đời mình, hoặc tự cho mình giải thoát được đời mình, giải thoát cả chúng sanh!

Herode không chỉ là nhà cầm quyền ở những nước chống lại Thiên Chúa, chống lại sự hiện diện của những người tin Thiên Chúa, bức bách Giáo Hội Chúa, mà Herode còn là chính mỗi người chúng ta trong bất kỳ xã hội nào: có hay không có, mất hay kém tự do dân chủ. Thiết nghĩ chúng ta không nên lầm tưởng hay ảo tưởng chủ quan rằng: chúng ta đang bênh vực cho Giáo Hội hay bênh vực cho chân lý của Thiên Chúa mà quên xét lại lòng mình theo tiêu chuẩn của Thánh Gioan đưa ra hôm nay: “Thiên Chúa là sự sáng và nơi Người không có sự tối tăm nào. Nếu chúng tôi nói rằng chúng tôi thông hiệp với Người, mà chúng tôi đi trong đường tối tăm, thì chúng tôi nói dối, và chúng tôi không thực thi chân lý” (1Ga, 1, 6). Vậy, không thể vừa hiệp thông với Thiên Chúa lại vừa cộng tác với ma quỷ. Càng không thể vừa hiệp thông với Thiên Chúa bằng những mỹ từ của Herode lại vừa sát hại Giáo Hội Chúa bằng những chiêu thức ác độc qua mọi phương tiện có thể. Một tiêu chuẩn khác để soi rọi lòng thành tín, thiện tâm của chúng ta mà Thánh Goan không quên, đó là: “Nếu chúng tôi đi trong ánh sáng, cũng như chính Người ở trong ánh sáng, thì chúng tôi có sự thông hiệp với nhau; và máu Chúa Giêsu Kitô Con Người rửa chúng tôi sạch mọi tội lỗi” (1Ga, 1, 7). Vậy, bao lâu chưa có sự thông hiệp với nhau trong cùng một ánh sáng chân thiện mỹ của Thiên Chúa, thì bấy lâu chúng ta có thể hãy còn là những Herode đáng kinh tởm.

Ấy là chuyện những Herode còn sống ngoài xã hội. Còn những Herode đang sống ngay trong nhà mình: những Herode đã giết triệu triệu thai nhi từ trong trứng nước. Có em bị giết bằng bom hơi ngạt do thuốc độc cực mạnh, có em bị lôi đầu ra khi đầu chưa tượng hình, có em bị xử giảo: cắt tay cắt chân cắt từng bộ phận, lôi ra, gắp ra… tồi tệ hơn nữa là có em bị ăn tươi nuốt sống, hoặc bị chiên nướng làm thức ăn “hàng nàm cao cấp” bổ dưỡng sung sức cho người thèm khát lạc thú.

Có người nói rằng các bà thời nay không còn than khóc con mình như bà Rakhel ngày xưa nữa, mà ngược lại, vẫn thản nhiên như gái tơ đương xuân thì phơi phới, vẫn lả lơi thoải mái chơi bời, vẫn miệt mài xuôi ngược tận hưởng lạc thú mà không mất mát gì cái hương sắc quyến rủ trần gian, vì họ yên tâm rằng lúc nào cũng có thể giải quyết êm những món nợ đời! Hóa ra, quà tặng sự sống bị từ chối và lại xem là một món nợ đời! Hóa ra, sự sống của chính họ, phẩm giá của chính họ và thiên chức làm Mẹ của chính họ cũng bị chính họ đánh mất, chà đạp, chối từ! Và hơn thế nữa, hóa ra, những thú vui đời, biến họ thành những ác nhân tự lúc nào mà họ không hay biết. Tại sao? Họ cũng là những người vẫn đi lễ, đọc kinh, giữ đạo mà? Cũng theo tiêu chuẩn của Thánh Gioan, bởi vì họ thông hiệp với Chúa cách giả dối.

Thiết tưởng, không nên quá nặng lời như thế, bởi vì, trong thực tế, còn nhiều bà Rakhel đau đứt ruột khi nhìn con mình hy sinh cho mình được sống yên, nhưng rồi, bình yên đâu chẳng thấy, chỉ thấy tội lỗi, sự thất đức, vô nhân đạo làm thành nỗi ám ảnh dày vò đay nghiến cả tâm can …

Lạy Chúa, nhân ngày lễ các Thánh Anh Hài, nguyện xin ánh sáng Chúa soi sọi lòng trí chúng con biết chân thành trở về thông hiệp với Chúa và thông hiệp với nhau trong nguốn ánh sáng Chân, Thiện, Mỹ của Chúa, để chúng con không còn làm những Herode đáng kinh tởm nữa. A men.

28-12-2011

Cao Huy Hoàng

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2011

Ông Già Noel Là Ai?

Lm Giuse Nguyễn Hữu An12/23/2011

Mỗi năm Giáng Sinh về, hình ảnh Ông Già Noel xuất hiện khắp mọi nơi. Ông Già Noel thân thương gần gũi vui vẻ trao quà cho trẻ em. Ông Già Noel thăm viếng và chia sẽ cho những người kém may mắn. Ông Già Noel làm MC trong các chương trình ca nhạc mừng Giáng Sinh…


Ông Già Noel là nhân vật lịch sử hay chỉ là huyền thoại ?



Thánh Nicôla và Ông Già Noel là cùng một người. Thánh Nicôla là một Giám Mục của Giáo Phận Myra, bên Thổ Nhĩ Kỳ. 



Người Pháp gọi là: Le Père Noel (ông Cha, linh mục Noel), người Anh gọi trực tiếp là Santa Claus (Thánh Nicôla), Thánh Giám mục,lễ mừng ngày 6 tháng 12 hàng năm.



Người Pháp thân mật gọi Ngài là “Le Père Noel” (ông cha Noel) vì ngài liên hệ nhiều đến lễ Noel, nhất là với trẻ em, đến nỗi sau khi Ngài qua đời đã lâu rồi, mà hình ảnh Ngài còn được lưu truyền cho hậu thế. Đầu tiên ở Châu Âu, rồi tới toàn thế giới qua bóng dáng một cụ già đẹp lão, râu tóc bạc phơ, mặc áo choàng đỏ viền trắng, thắt lưng da đen, đội mũ chóp đỏ, lưng vác một giỏ lớn đây đồ chơi và bánh kẹo cho thiếu nhi.



Người ta còn thi vị hóa, đem niềm vui cho trẻ em, bằng cách “bắt ông cha Noel đêm 24 tháng 12 chui qua lò sưởi vào phòng ngủ của các em, bỏ đồ chơi, bánh kẹo vào những chiếc giày các em để bên lò sưởi, hay bỏ vào những chiếc vớ mà các em treo ở chân giường”. Thật ra là cha mẹ các em bỏ vào đó để khuyên các em phải ngoan thì “Cha Noel” mới cho quà! Một cách giáo dục hay!



Khi tới Việt Nam, dân chúng không hiểu rõ nguồn gốc, thấy hình cụ già râu tóc bạc phơ, nên gọi là Ông Già Noel.



Ông Già Noel ngày nay đã bị xã hội tục hóa quá nhiều khiến lu mờ đi ý nghĩa chính của câu truyện, đó là tấm gương quảng đại của vị Giám mục thánh thiện, Thánh Nicôla.



Cả hai giáo hội Ðông Phương và Tây Phương đều vinh danh ngài. Có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường được các nghệ sĩ Kitô giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicôla là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư. Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á. Tuy nhiên, như nhiều vị thánh khác, chúng ta có thể biết được mối quan hệ giữa thánh nhân và Thiên Chúa qua sự ngưỡng mộ mà các Kitô hữu dành cho ngài. Sự ngưỡng mộ được diễn tả qua các câu truyện đầy màu sắc và thường được kể đi kể lại trong nhiều thế kỷ.



Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về Thánh Nicôla là lòng bác ái của ngài đối với một gia đình nghèo khổ mà ông bố không có của cải để cho ba cô con gái làm của hồi môn. Vì không muốn trông thấy họ phải lâm vào cảnh đĩ điếm, Thánh Nicôla đã bí mật ném ba gói vàng qua cửa sổ nhà ông này vào ba trường hợp khác nhau, để giúp các cô con gái ấy đi lấy chồng. Qua các thế kỷ, huyền thoại này trở thành thói quen tặng quà nhân ngày lễ kính thánh nhân. Trong thế giới nói tiếng Anh, Thánh Nicôla trở thành Santa Claus và người Việt thường gọi là Ông Già Noel.(x.nguoitinhuu.com)



1. Cuộc đời Thánh Nicôla



Năm 1969, Giáo Hội Công Giáo đã chính thức đặt vấn đề tra cứu về thân thế của Thánh Nicôla. Ngài là một vị thánh thực sự hay chỉ là một huyền thoại?



Sử liệu còn để lại đã chứng minh rằng Ngài là một nhân vật có thật. 



Thánh nhân sinh năm 280 scn, tại một ngôi làng nhỏ tên Batara thuộc vùng Tiểu Á (ngày nay thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhỉ Kỳ). Cha mẹ đặt tên cho con trai bằng tiếng Hy Lạp là Nicôla. Lúc ấy nền văn minh và văn hóa Hy lạp còn thống trị nhiều vùng đất rộng lớn trong đó có Thổ Nhỉ Kỳ. Theo tiếng Hy Lạp, Nicôla có nghĩa là Người Anh Hùng của Dân Tộc. Cái tên định mệnh đó rất xứng đáng đối với ngài ít nhất ở lãnh vực đạo đức và tôn giáo. Ông bà thân sinh tuy không giàu có lắm nhưng luôn giúp đỡ người nghèo. Hấp thụ nền đạo đức bác ái từ cha mẹ: "Phải luôn là người lương thiện, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình", Nicôla đã trở thành một mẫu người thánh thiện ngay khi ngài còn ở độ tuổi thiếu niên. Một cơn dịch bệnh tràn qua thôn xóm. Cha mẹ qua đời, lúc này Nicôla mới 12 tuổi. Tuy vậy, cậu bé vẫn tiếp tục đem tiền bạc giúp đỡ cho những người cùng khổ. Nicôla miệt mài học tập giáo lý. Ngài có một khả năng siêu nhiên lạ lùng là có thể cảm nghiệm được nỗi khổ đau đang xảy ra ở đâu đó và lập tức đến nơi cứu giúp.



Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, có lẽ thánh Nicôla là người được phong chức Giám Mục thành Mira ở độ tuổi trẻ nhất. Lúc đó ngài mới có 19 tuổi. Vì vậy, bạn bè đặt cho ngài biệt danh vui nhộn là "chú nhóc Giám Mục". Ngài cười đón nhận và chẳng phiền lòng tí nào. 



Năm 303, lúc Nicôla 23 tuổi, Vua La Mã là Dio Pletian buộc mỗi vùng thuộc đế quốc La Mã phải tôn phục ông là thượng đế. Dĩ nhiên Giám Mục Nicôla và giáo dân địa phận Mira không chịu tuân phục. Ðối với Kitô hữu, chỉ có một Thượng Ðế duy nhất, đó là Thiên Chúa. Vì vậy, thầy trò Nicôla đều được ưu ái mời vô khám nằm đếm lịch, ăn bánh mì đen và uống nước lã. Riêng Nicôla bị biệt giam trong một cái nhà tù nhỏ xíu, bị bỏ đói, khát và lạnh đến 10 năm. Vô cùng mầu nhiệm, ngài vẫn sống.



Đến năm 313, hoàng đế Constantine lên ngôi, ra sắc chỉ Milan, đại xá thiên hạ. Lao lý 10 năm đã làm cho đức tin và con người của Nicôla thêm bền vững. Ngài dốc tâm giảng đạo, phát triển Giáo hội, bố thí của cải và đem vô số người về với Chúa. 



Ngày 6 tháng 12 năm 343, ĐGM Nicôla từ trần, hưởng thọ 63 tuổi. Ngài để lại cho trần thế một công nghiệp đồ sộ, một tên tuổi rực chói và những câu chuyện có thật lẫn huyền thoại mà vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày nay. 



Một thời gian ngắn sau khi ĐGM Nicôla từ trần, người dân Mira dựng lên một ngôi đền thờ tôn kính ngài, lưu giữ tất cả các vết tích và các vật dụng của ngài. 



Ðến năm 800 Giáo Hội Công Giáo Đông Phương chính thức tuyên dương ngài là thánh. 



2. Từ một vị Thánh trở thành Ông Già Noel.



Làm cách nào mà từ một vị Thánh đầy lòng bác ái lại trở thành Ông Già Noel, một biểu tượng mang tính tiêu dùng vào mỗi mùa Giáng Sinh?



Jeremy Seal, một nhà văn chuyên viết về các đề tài du lịch (hay một nhà văn lãng du, travel writer), đã lao vào một cuộc tìm kiếm mang tính quốc tế để trả lời cho câu hỏi trên và Ông đã cho viết lại những tìm kiếm của Ông trong cuốn sách có nhan đề: “Nicholas: Cuộc Viễn Du Mang Tín Thiên Hùng Ca từ Một Vị Thánh trở thành Ông Già Noel” (Nicholas: The Epic Journey from Saint to Santa Claus) do nhà sách Bloomsbury xuất bản.



Ông đã chia sẽ cho hãng tin Zenit về những gì mà Ông đã khám phá ra, bằng việc dõi theo sự sùng kính Ông Già Noel trên khắp địa cầu và lý do tại sao Ông nghĩ Thánh Nicôla và lòng bác ái từ nhân của vị Thánh này vẫn còn âm vang mãi cho đến ngày hôm nay, mặc cho chủ nghĩa tiêu thụ hóa của mùa Giáng Sinh. 



Hỏi (H): Thưa Ông, điều gì đã khiến Ông có cảm hứng để viết ra cuốn sách này? Và Ông định tìm kiếm mãi cho đến tận đâu?



Ông Seal (T): Thưa, tôi bị lôi cuốn vào đề tài này bởi vì chính tôi cũng có hai cô con gái nhỏ, 6 và 2 tuổi khi tôi bắt đầu dự án này. Chúng nhắc nhở cho tôi biết được nhân vật Ông Già Noel có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với các trẻ em.



Tôi cũng bị lôi cuốn vào Thánh Nicholas vì lẽ câu chuyện của vị Thánh này có tính chất thiên hùng ca hay thiên sử thi. Tôi là một nhà văn chuyên viết về các đề tài du lịch và ý thức rằng mãi cho đến khi vị Thánh này chết đi thì mọi người mới biết được vị Thánh đã thực hiện một cuốn viễn du lạ kỳ bắt đầu từ Thổ Nhĩ Kỳ đến tận Châu Âu, Manhattan và sau cùng là vùng Bắc Cực lạnh giá. 



Tôi cũng đã đi đến tất cả những nơi có gắn liền với cuộc sống của vị Thánh Nicholas này.



Tôi bắt đầu chuyến viễn du tại Thổ Nhĩ Kỳ là nơi mà Vương Cung Thánh Đường nguyên thủy mang tên vị Thánh đứng sừng sững giữa thành phố Myra, giờ đây là thành phố Demre; rồi lần theo sự sùng kính của vị Thánh này đến vùng phía Tây của Bari, Ý Quốc; và phía Bắc đến thành Venice, Áo Quốc; rồi đến Amsterdam của Hòa Lan và rất nhiều nơi khác nữa tại Châu Âu; rồi đến thành phố Manhattan và sau cùng là đến Lapland ở phía Bắc Phần Lan và Thụy Điển cùng với hai đứa con gái của tôi vào mùa Giáng Sinh năm vừa qua.



(H): Thưa Ông, Thánh Nicholas của thành Myra là ai vậy?



(T): Thưa, chúng ta biết rất ít về vị Thánh này. Vị Thánh chính là Đức Giám Mục của Giáo Phận Myra vào thế kỷ thứ 4. Myra là một thị trấn ở phía Nam Thổ Nhĩ Kỳ, nay được biết đến là thành phố Demre. Không có bằng chứng nào còn sót lại về cuộc sống thật sự của vị Thánh này ngoại trừ việc tham khảo vào bản viết tay của thế kỷ thứ 6.



Chúng ta hoàn toàn chẳng biết gì cả về Thánh Nicholas ngay cả sau khi vị Thánh này mất đi. Nhưng bởi vì vị Thánh là một người rất nổi tiếng, được biết tới sau khi vị Thánh đã chết đi, do đó, có lẽ là do một điều gì đó trong cuộc sống của Ngài mới làm cho Ngài được ca ngợi nhiều đến như vậy; chúng ta tuy không biết được gì nhiều về vị Thánh này, nhưng giác quan cho chúng ta biết được rằng: Ngài là một người rất đặc biệt.



Trông có vẽ là Ngài là một người rất tế nhị nên đã khiến cho tên tuổi của Ngài được đề cập đến trong việc cầu xin một sự trợ giúp về vật chất lẫn một sự trợ giúp mang tính thực tế nào đó. Khía cạnh này vẫn mãi âm vang qua biết bao nhiêu thế hệ bởi vì sự trợ giúp về vật chất là một điều gì đó mà tất cả chúng ta đều cần đến hay có thể liên hệ đến.



(H): Thưa Ông, đâu là những hành động khác thường, nổi bật của vị Thánh này?



(T): Thưa, có rất nhiều loại câu chuyện minh chứng cho những hành động khác thường và nổi bật của vị Thánh này, vì lẽ, Ngài là vị Thánh duy nhất sống rất thọ. Trong thời của Ngài, hầu hết những vị Thánh Kitô Giáo đều bị tử vì đạo, chỉ có Thánh Nicholas là có nhiều câu chuyện được kể về nhất vì vị Thánh sống rất lâu và đã qua đời ngay trên giường ngủ của Ngài.



Bạn có thể chọn lựa một vài mẫu chuyện về Ngài, nhưng hầu hết mọi câu chuyện đều có một điểm chung duy nhất là việc Ngài chủ động giúp đỡ tất cả mọi người. Có vô số câu chuyện về việc Ngài cứu các thủy thủ khỏi bị sóng bão đánh ngoài khơi bờ biển của thành phố Myra. Khi Ngài thuyết phục vị thuyền trưởng của một chiếc tàu vừa mới vượt qua mang các hàng hóa về lúa thóc đến thành phố Myra là nơi mà mọi người đang phải chết đói, tức thì chuyến hàng của vị thuyền trưởng đó tự nhiên được bổ sung thêm rất nhiều.



Một số binh sĩ đang chờ đợi tử hình đã nói dối là thấy được vị Thánh trong giấc mộng, tức thì Thánh Nicholas liền đến an ủi họ và giúp họ được giải thoát.



Khi ý tưởng của Thánh Nicholas đến được Nga Sô vào thế kỷ thứ 11, thì một loạt câu chuyện mới về vị Thánh được nêu ra. Những người Nga Sô gọi Ngài là “ugodnik” tức “người giúp đỡ.” Tại Nga Sô, Ngài đã giúp đỡ dân chúng dưới nhiều hình thức khác nhau như: hổ trợ những người chăn cừu trong việc bảo vệ đàn cừu khỏi bị chó sói, bảo vệ các ngôi nhà khỏi bị cháy rụi, vân vân..



(H): Thưa Ông, đâu là những cản trở mà sự sùng kính về vị Thánh này gặp phải qua nhiều thế kỷ?



(T): Thưa, tôi nghĩ là có hai khía cạnh cụ thể.



Khía cạnh đầu tiên là từ thế kỷ thứ 8 trở đi, nơi mà Ngài đã bắt đầu, tại phía Nam của Thổ Nhĩ Kỳ liên tục bị đe dọa từ các thế lực Hồi Giáo đang lớn mạnh tại đó, những người vốn không mấy thích thú gì cả về vị Thánh này.



Những di tích của Thánh Nicholas đã bị đưa ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1087 và được mang đến Bari, Ý Quốc, vốn đã thiết lập nên tên tuổi của Ngài tại Âu Châu và sự sùng kính đó cứ thế mà được lan tràn ra khắp lục địa Âu Châu. Rất đáng ngạc nhiên là nó được dời ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ kịp thời vì lẽ Ngài không bị tách rời ra khỏi nhịp điệu phát triển tại một quốc gia Hồi Giáo tương lai; và tại Bari, một Vương Cung Thánh Đường đã được dựng lên bên trên những di tích của Ngài.



Khía cạnh thứ nhì chính là phong trào cải cách đã càn quét toàn bộ vùng phía Bắc Âu Châu vào các thế kỷ 16 và 17 và việc xem nhẹ / coi thường tầm quan trọng của các vị Thánh. Tôi nghĩ Ngài chính là vị Thánh duy nhất đã tạo ra được sự cảm kích, sâu đậm cho tất cả mọi người vượt qua cả phạm vi của Giáo Hội, vì lẽ Ngài đã trở thành một thành viên yêu mến nhất của tất cả mọi người và mọi nhà.



Thánh Nicholas sẽ đến cứ vào mỗi ngày thứ 6 của tháng 12 để mang các món quà xuống từ ống khói cho các trẻ em ở phía Bắc Châu Âu; và bắt đầu từ thế kỷ thứ 14 Ngài đã trở nên phổ biến và được yêu mến nhiều bởi tất cả mọi người. Chính điều này đã tạo cho việc sùng kính Ngài trở nên ngày một kiên vững và thành trì hơn, đang khi đó, thì tại tất cả những nơi khác những hình ảnh và bức tượng của các vị Thánh khác đều bị phá trụi, bị thiêu hũy, bị đốt cháy hay bị đập tan ra từng mãnh.



(H): Thưa Ông, làm thế nào mà vị Thánh này có liên quan đến hình ảnh của Ông Già Noel thời nay?



(T): Thưa, vì tình yêu thương vào Thánh Nicholas đã giữ cho việc sùng kính Ngài được tồn tại và sống động mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 18 tại thành phố Manhattan, thuộc tiểu bang New York, là nơi mà sự trở lại của Ông Già Noel đã xảy ra.



Cái tên “Santa Claus” (Ông Già Noel) là cách đọc theo giọng Mỹ của từ “Sinterklaas” của người Hà Lan. Thánh Nicholas và Ông Già Noel là cùng một người, thế nhưng rất nhiều người không hề biết được điều này. Cả hai đều là một, nhưng trông có vẽ khác nhau là vì sự tiến triển tại nhiều thời điểm khác nhau sau cái chết của vị Thánh.



Chúng ta không biết được vào thời gian nào mà ý tưởng này được lan truyền từ phía Bắc Châu Âu đến vùng Tân Amsterdam, bây giờ là thành phố Manhattan. Nhưng thật là an toàn khi nói rằng vị Thánh này đã đến cùng thời với những người di cư đầu tiên như là một trí nhớ giả tạo (fake memory) và sau đó bị im lặng tại vùng Bắc Mỹ mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 18.



Điều đã xảy ra chính là việc cho quà, mà vào thời gian đó chỉ đơn thuần là một việc trao đổi các vật gia dụng trong nhà mang tính chất địa phương và nhất thời mà thôi, và rồi sau đó bùng nổ thành một thứ gì đó lớn hơn rất nhiều. Việc sản xuất đại trà cũng từ đó mà bắt đầu, các tiệm bán lẻ bắt đầu mở ra, các loại đồ chơi trở nên thịnh hành từ phía Bắc Châu Âu, và các cuốn sách, các dụng cụ âm nhạc và các đồ vải lanh đều có thể mua sắm được.



Tầm ảnh hưởng của việc này chính là truyền thống trao tặng quà cáp được hoán chuyển trên tất cả mọi khía cạnh nhận thức của con người. Điều này đã tạo ra một nhu cầu cho việc cần phải có một tinh thần trong việc trao tặng quà cáp. Thánh Nicholas chính là người hay trao tặng quà cáp từ thế giới cổ trong các truyền thống của người Hòa Lan và người Anh Quốc, và mọi người chẳng cần phải nghĩ ngợi quá lâu để liên tưởng ngay đến Ngài.



Mọi người ở vào cuối thế kỷ 18 đại chúng hóa ý tưởng về Ông Già Noel, nhưng vào thời đó, họ không có chủ ý là thương mại hóa. Thánh Nicholas cũng từ đó mà nổi trội lên và dần dà tên của Ngài được đổi thành Santa Claus tức Ông Già Noel.



Vào những năm của thập niên 1820, Ngài bắt đầu đạt được những sự công nhận qua các loại đồ trang trí như: nai tuyết, ngựa kéo xe trượt tuyết và các quả chuông. Chúng chỉ đơn thuần là những thứ trang điểm bề ngoài trong một thế giới mà Ngài nổi trội lên. Vào thời đó, xe ngựa trượt tuyết chính là phương tiện để bạn có thể đến được vùng Manhattan.



Bài thơ “Một Cuộc Viếng Thăm của Thánh Nicholas” (A Visit from St. Nicholas) cũng còn được biết đến như “Twas the Night Before Christmas” (Mãi Cho Đến Đêm Trước Giáng Sinh) được xuất hiện ra trước công chúng vào năm 1822 và mô tả đầy đủ các chi tiết về vị Thánh. Khi đó Ngài hút thuốc bằng tẩu, và dần dà trở thành nhân vật mà giờ đây chúng ta được biết đến.



Tất cả những yếu tố này được thành hình nên về Ngài, và càng ngày Ngài càng bị thương mại hóa, vốn là một điều thật dễ hiểu, nhưng đó lại là một sự sai lạc so với ý nghĩa nguyên thủy của việc Ngài là ai và có ý nghĩa như thế nào. Trong thời đại Trung Cổ, Ngài chính là một biểu tượng và một thần tượng về lòng bác ái. Tôi không dám chắc là liệu điều này còn đúng hay không nữa trong thời đại ngày nay, vì có vẽ con người thời nay đã hình tượng hóa Ngài trong một sự pha trộn lạ kỳ giữa lòng bác ái và sự bùng nổ của việc thương mại hóa.



(H): Thế thưa Ông, Ông có đề nghị gì cho các bậc làm cha mẹ Kitô Giáo để họ kể về Ông Già Noel cho các con cái của họ?



(T): Thưa, điều mà tôi đã cố gắng làm bằng cách lần theo dấu vết của Ông Già Noel về tận nguồn gốc nguyên thủy của vị Thánh chính là cách để nhắc nhở chính bản thân tôi rằng thật sự có một khía cạnh đạo đức luân lý thật trong việc trao tặng quà. Thánh Nicholas luôn tìm cách giúp đỡ mọi người khi họ rơi vào tình trạng túng quẫn. 



Đây chính là bài học mà chúng ta có thể rút ra được từ việc trao tặng quà. Các món quà, nhằm để trao cho những người thân mà họ đã có đầy đủ hay dư thừa, không thể nào phản ánh đúng cho được những gì mà Thánh Nicholas thường hay làm. Làm cách nào mà vị Thánh này trở nên quan trọng và có ý nghĩa đối với tất cả các trẻ em, thì tôi thật sự không biết.



Tôi là một người theo đạo Anh Giáo đã từng sa ngã, nhưng điều thú vị mà tôi tìm được qua Thánh Nicholas này chính là từ các quan điểm về mặt trí thức lẫn về mặt đạo đức, luân lý học. Tôi yêu mến khía cạnh đạo đức luân lý mà vị Thánh này đại diện cho và về những hoạt động mang tính bác ái của Ngài.



Thánh Nicholas có sức lôi cuốn cho bất kỳ ai trên bất kỳ mọi khía cạnh đạo đức, và luân lý học nào, và không có một hệ thống tín ngưỡng nào có thể bất đồng về những gì mà Ngài tượng trưng cho.



Ngài nói chuyện với tất cả mọi người vì lẽ quá nhiều thần học có thể làm cho rối rắm thêm, thế nhưng chính Ngài và những câu chuyện của Ngài là rất đơn giản, mộc mạc. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao mà chúng vẫn còn âm vang mãi qua hàng trăm năm và tại sao chúng lại có tính liên kết tồn tại trong truyền thống của mọi gia đình khi chúng ta đề cập tới Ông Già Noel trong thời đại ngày nay. (nguồn: Vietcatholic 22/12/2005).



3. Vài cầu chuyện về Thánh Nicôla.



a. Thánh Nicôla làm phép lạ trên biển



Câu chuyện kể về người thủy thủ một chiếc tàu sắp bị đắm trong vùng biển Ðịa Trung Hải. Con tàu bị lạc giữa một cơn bão tố và va phải đá ngầm và bị thủng một lỗ to. Nước biển tràn vào ồ ạt. Con tàu chồng chềnh ngã nghiêng và chìm dần xuống. Một vài thủy thủ chợt nhớ lại tên thánh Nicôla hằng cứu giúp, mặc dầu lúc ấy ngài đã tạ thế. Lập tức họ cùng nhau quỳ xuống khấn nguyện tên ngài và khẩn cầu ngài cứu vớt. Ðột nhiên từ trên không, giữa những làn nước giá buốt trút ầm ầm như thác, giữa những cơn sóng gầm thét điên cuồng, thánh Nicôla trong chiếc áo giám mục màu đỏ từ từ hạ xuống giữa khoang tàu. Gió bỗng thôi gào, mưa bão ngưng tạnh. Thánh Nicôla cùng thuỷ thủ đoàn quỳ xuống tạ ơn Thiên Chúa, rồi ngài cùng họ chèo chống con tàu ra khỏi vùng đá ngầm bằng một chiếc sào dài. Khi con tàu đã đến chỗ bình yên, thì ngài vẫy tay từ biệt họ, cất mình lên không và biến mất sau những đám mây trắng. Vẫn chưa chấm hết câu chuyện, khi con tàu cập bến Myra, các thủy thủ cùng vị thuyền trưởng đi đến ngôi đền thờ thánh Nicôla để làm lễ tạ ơn, thật lạ lùng, họ thấy ngài đã hiện ra lúc nào và đang mĩm cười đứng bên đền thờ nhìn họ. Một người hỏi rằng làm thế nào mà ngài đã biết và đến cứu họ. Thánh Nicôla cho biết, ngay từ thuở nhỏ, ngài đã có năng khiếu siêu nhiên là có thể nhìn thấy những người đang lâm nạn và nghe thấy tiếng kêu khóc của họ, vì đó là ý của Chúa. Từ câu chuyện này, mãi cho đến ngày sau, người Hy Lạp thay vì đập chai sâm banh để khánh thành một chiếc tàu mới chuẩn bị hạ thủy thì họ khấn nguyện xin thánh Nicôla bảo hộ cho họ được bình yên trên các nẽo đường hàng hải.



b. Thánh Nicôla làm phép lạ cứu sống 3 trẻ em.



Có một buổi sáng trời giá lạnh, Đức cha Nicôla bước vào một quán ăn nhỏ bên đường cách đô thị chừng 15km. Chủ quán nhận ra Đức Giám mục liền chào Ngài. Đức cha hỏi: “Quán có gì ăn không?”. Chủ quán thưa: “Dạ, có thịt, trứng và bánh mì, nhưng hết mất rượu vang. Xin Đức cha vui lòng ngồi nghỉ chờ con ít phút, con vào trong làng mua rượu”.



Chủ quán đi rồi, Đức cha Nicôla xuống bếp, mở nắp khạp thịt, vỗ vào hông khạp và gọi:



- Dậy đi, các con!



Thế là có ba bé trai lùng nhùng từ đống thịt tươi mới ướp muối, liền lại, sống lại và bước ra. Ngài chỉ chỗ cho ba đứa trẻ lấy quần áo mặc vào, rồi lên nhà trên ngồi vào bàn ăn chờ. Thì ra đó là ba bé trai nhà nghèo, chiều hôm trước đi mót lúa ngoài cánh đồng, bị đói lạnh, đã vào quán xin ăn, bị chủ quán giết chết, chặt ra bỏ vào khạp ướp muối để sẽ nấu món ăn bán cho khách. Thánh nhân biết được nên đã tới cứu các cháu.



Lát sau chủ quán về tới, giật mình trông thấy ba đứa bé anh đã giết chết, ngồi cạnh Đức Giám mục. Anh sợ hãi qùy xuống trước mặt Ngài thú tội:



- Con nghèo quá nên đã làm nhiều sai trái, xin Đức Cha tha tội cho con!



Ngài giải tội cho anh, lại còn cho anh một túi tiền để làm vốn và khuyên anh từ nay không được làm điều ác. Sau đó Ngài bảo anh dọn bánh mì, chiên trứng, bốn cha con ăn xong, Ngài dẫn ba đứa bé đi theo về trả lại cho gia đình và cấp dưỡng cho chúng được ăn học.



Những truyện về Thánh Giám Mục Nicôla còn rất nhiều. Điều chủ yếu muốn nói đến qua các câu chuyện là Ngài rất gần gũi với lễ Giáng Sinh, hay giúp đỡ dân nghèo, đặc biệt là bạn của các thiếu nhi. Dù khi còn ở gia đình, khi đã đi tu, khi làm linh mục hay khi đã làm giám mục, khi còn trẻ hay khi đã râu dài tóc bạc, mỗi mùa Giáng Sinh về, Thánh Nhân đều mang trên lưng một bao lớn bánh mì bánh kẹo, đem tới từng nhà chia cho trẻ em nghèo mừng lễ Giáng Sinh. 



Cuộc đời Thánh Nicôla thắp sáng lên một ngọn đuốc tình yêu trong thế gian. 



Xin Chúa cho mỗi người chúng con là một “Little Santa Claus”, một ông già Noel nhỏ. Chúa sinh ra, đem mùa xuân hạnh phúc cho cả nhân loại. Cuộc đời Thánh Nicôla mang niềm vui hạnh phúc cho bao người, đặc biệt là trẻ em. Xin cho chúng con biết đem niềm vui Giáng Sinh đến cho mọi người, đặc biệt những người bên Lương hàng xóm láng giềng của chúng con. Amen. 



Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

Liên Khúc Chúa Thương Loài Người - Noel 2011




Uploaded by on Dec 25, 2011
Nhạc trưởng TRẦN CHÚC dẫn xuất Ban Hợp Xướng MAGNIFICA, ORANGE HIGH SCHOOL CONCERT CHOIR và dàn nhạc giao hưởng CHRISTMAS FESTIVAL ORCHESTRA tại thánh đường OUR LADY OF LA-VANG, Santa Ana, California, ngày 9 tháng 12 năm 2011.
Liên Khúc Giáng Sinh CHÚA THƯƠNG LOÀI NGƯỜI do TRẦN CHÚC phối kết và
phối âm cho SATB và dàn nhạc giao hưỏng.
Liên Khúc gồm có:
Cao Cung Lên Hoài Đức & Nguyễn Đức Xuyên
Mục Đồng Rủ Nhau Trần Chúc
Mẹ Hát À Ơi Trần Chúc
Hang Bê Lem Hải Linh & Minh Châu

TRẦN CHÚC conducts MAGNIFICA CHORALE, ORANGE HIGH SCHOOL CONCERT CHOIR and CHRISTMAS FESTIVAL ORCHESTRA
"GOD LOVE THE WORLD", A Christmas Meddley by TRẦN CHÚC
Cao Cung Lên Hoài Đức & Nguyễn Đức Xuyên
Mục Đồng Rủ Nhau Trần Chúc
Mẹ Hát À Ơi Trần Chúc
Hang Bê Lem Hải Linh & Minh Châu

Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2011

ĐTC mời gọi trong dịp lễ Giáng Sinh


ĐỨC THÁNH CHA MỜI GỌI 
ĐỪNG ĐÁNH MẤT Ý NGHĨA TÔN GIÁO SÂU XA CỦA LỄ GIÁNG SINH


 Trong buổi tiếp kiến chung cuối cùng trước lễ Giáng Sinh hôm thứ Tư 21/12/2011, Đức Thánh Cha đã nhắc đến những lời cầu chúc mà người ta trao đổi cho nhau nhân dịp này. Đối với ngài, chúng ta hãy làm thế nào để ngày lễ Giáng Sinh tốt lành này « không mất đi ý nghĩa tôn giáo sâu xa của nó, và ngày lễ không bị chìm ngập bởi những khía cạnh bề ngoài…Với phụng vụ lễ Giáng Sinh, Giáo Hội dẫn chúng ta vào trong mầu nhiệm nhập thể lớn lao. Nó không hệ tại chỉ là việc kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giêsu, nhưng còn là một mầu nhiệm tiếp tục ghi dấu lịch sử nhân loại. Thiên Chúa đã đến cư ngụ giữa chúng ta bằng việc trở thành một người trong chúng ta…Vào thánh lễ đêm, thánh vịnh đáp ca nhắc lại rằng hôm nay một Đấng cứu độ đã giáng sinh cho chúng ta…Và khi chỉ ra rằng hôm nay Ngài đã sinh ra, phụng vụ nhấn mạnh rằng việc sinh ra này thay đổi… toàn thể lịch sử…Khi chúng ta nghe hay nói Ngày hôm nay một Đấng cứu độ đã sinh ra cho chúng ta, thì nó không hệ tại một công thức tầm thường. Ngày hôm nay, Thiên Chúa ban cho chúng ta khả năng nhìn nhận Ngài và đón tiếp Ngài theo gương các mục đồng ở Bêlem, vì Ngài cũng đang sinh ra nơi những cuộc sống của chúng ta, (những cuộc sống) mà Ngài làm sinh động lại ».

Đức Thánh Cha liên kết lễ Giáng Sinh với lễ Phục Sinh : « Giáng Sinh và Phục Sinh là những ngày lễ cứu độ thuộc về hành động cứu chuộc duy nhất của Chúa Kitô. Việc nhập thể và việc giáng sinh của Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta nhìn đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Lễ Phục Sinh cử hành nó (hành động cứu chuộc) như là chiến thắng trên tội lỗi và sự chết », đang khi lễ Giáng Sinh cử hành nó « như là việc Thiên Chúa đi vào trong lịch sử, mà bằng việc nhập thể, đã đến dẫn đưa con người trở về với Ngài ». « Vào ngày lễ Giáng Sinh, chúng ta khám phá lại sự âu yếm của Thiên Chúa nghiêng mình xuống trên những giới hạn, những yếu đuối và tội lỗi của chúng ta, hạ mình xuống tận chúng ta… Vì thế, chúng ta hãy sống thời điểm này và mầu nhiệm này trong niềm vui và, đặc biệt, trong việc cử hành Thánh Lễ trung tâm của lễ Giáng Sinh. Nó làm cho Chúa Giêsu thực sự hiện diện, bánh đích thực từ trời xuống, chiến con đích thực hiến tế vì phần rỗi của chúng ta ».

Tý Linh
Theo VIS
Nguồn:
http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=18798

Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2011

Mừng lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long12/23/2011

Hằng năm toàn thể Giáo Hội Công giáo mừng ngày sinh nhật Chúa Giêsu, đấng Cứu thế từ trời cao sinh xuống làm người trên trần gian. Mừng sinh nhật Chúa Giêsu, đấng Cứu thế, Con Thiên Chúa, cũng là vị Thủ lãnh sáng lập Giáo Hội Chúa ở trần gian. Lễ mừng sinh nhật của Chúa Giêsu, con Thiên Chúa sinh ra làm người, là ngày lễ trọng đại của đức tin đạo Công giáo. Và ngày lễ trọng đại đó có nguồn gốc trong dòng thời gian lịch sử về khía cạnh văn hóa cũng như chính trị của đời sống xã hội nhân loại.


1. Chúa Giêsu giáng sinh dòng trong lịch sử 



Martyrologium Romanum ghi chép tên tuổi lịch sử các vị Thánh của Giáo Hội Công giáo toàn cầu đã có bài công bố về niên đại cùng nơi chốn lịch sử Chúa Giêsu giáng sinh làm người: 



„ANNO ein creatióne mundi, 
quando in principio Deus creávit coelum et terram, 
quinquies Millesimo Centesimo nonagésimo nono: 
Ein diluvio autem, anno bis Millesimo nongentésimo quinquagésimo Septimo: 
Ein Nativitate Abrahae, anno bis Millesimo quintodécimo: 
Ein Moyse et egréssu populi Israel de Ægypto, anno Millesimo quingentésimo Decimo: 
Ab unctióne David in Regem, anno Millesimo trigésimo Secundo; 
Hebdómada Sexagesima quinta, juxta Danielis prophetíam: 
Olympiade centésima nonagésima quarta: 
Ab urbe Roma condita, anno septingentésimo quinquagésimo Secundo: 
Anno Imperii Octaviáni Augusti Quadragesimo Secundo, 
toto Orbe in Tempo compósito, sexta mundi Aetate, - 
Jesus Christus Aeternus Deus, æterníque Patris Filius, 
mundum volens advéntu suo piíssimo consecráre, 
de Spiritu Sancto Conceptus, novémque post conceptiónem decúrsis ménsibus, 
in Bethlehem Judae nascitur ex María Virgine factus Homo. 
Nativitas Domini nostri Jesu Christi secundum carnem. “



Xin tạm dịch:



“ Vào 5199 năm từ khi trời đất vũ trụ do Thiên Chúa sáng tạo nên,
Vào 2957 năm xảy ra nạn lụt đại hồng thủy,
Vào 2015 năm Tổ Phụ Abraham chào đời
Vào 1510 năm Tiên Tri Maisen dẫn đưa dân Israel trở về quê hương từ Ai Cập 
Vào 1032 năm David được xức dầu phong làm Vua
Vào tuần lễ thứ 65. trong năm sau lời tiên báo của Daniel
Vào lễ Thế vận hội thứ 194.
Vào năm 752 từ khi thành phố Roma được lập nên
Vào năm thứ 42. triều đại chính phủ Oktavianus Augustus, 
Vào thời gian năm thứ 6. niên lịch thế giới, nền hòa bình có khắp nơi trên địa cầu
Chúa Giêsu Kito, Đấng là Thiên Chúa hằng có, là Con của Thiên Chúa Cha hằng có, đã muốn thánh hóa thế giới qua việc Ngài đến hứa ban chan chứa đầy tràn ân phúc,
Đấng đã bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, sau chín tháng thụ thai trong cung lòng người mẹ đã sinh ra làm người ở Bethlehem miền Juda bởi Đức Mẹ đồng trinh Maria:
Đức Giêsu Kito Chúa chúng ta đã sinh ra làm người với thân xác xương thịt.” 



Theo dòng lịch sử văn hóa cùng tập tục sống đức tin, Giáo Hội đã ấn định ngày 25.12. hằng năm theo dương lịch là ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế sinh xuống làm người trên trần gian.



Nhưng tại sao lại chọn ngày 25.12. là ngày sinh nhật Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu thế? 



2. Lễ Chúa giáng sinh ngày 25.12. trong lịch sử Giáo Hội.



Trong Kinh thánh phúc âm không ghi ngày tháng Chúa Giêsu sinh ra, và thời Giáo Hội sơ khai lúc ban đầu cũng không có ngày mừng sinh nhật của Chúa Giêsu. Các tín hữu Chúa Kitô lúc đó chỉ nghĩ nhớ đến ngày kỷ niệm qua đời của các vị Thánh Tử đạo, chứ không đến ngày sinh nhật của các Vị. 



Trước năm 221 Julius Africanus đã chọn ngày 25. Tháng Ba là ngày nhớ sự thương khó của Chúa Giêsu, và đồng thời cũng là ngày Chúa Giêsu thụ thai trong cung lòng Đức Mẹ Maria. Tình từ ngày này thai nhi Giêsu chín tháng trong cung lòng đức mẹ, thì ngày sinh nhật mở mắt chào đời phải là ngày 25. Tháng Mười Hai.



Bên Giáo Hội Armenien ấn định ngày 5. và 6. tháng Một ( tháng Giêng) là ngày sinh nhật Chúa Giêsu. Đang khi bên Giáo Hội Georgien lấy ngày 25.tháng 12 là ngày mừng sinh nhật Chúa Giêsu. 



Bên Giáo Hội cổ xưa miền Palestina đã có một thời gian mừng ngày sinh nhật Chúa Giêsu vào giữa tháng Năm.



Furius Dionysius Filocalus trong niên giám năm 354 đã ghi lại ngày 25. tháng 12 là ngày lễ gíang sinh Chúa Giêsu. Viết lại ngày 25.12. trên ông đã căn cứ vào nguồn sử liệu Roma năm 336 - một năm trước khi Hoàng đế Contantino qua đời, vị Hoàng đế này vào thời gian đó đã công nhận cho phép đạo Công gíao Chúa Kitô chính thức hoạt động ở Roma và trong đế quốc đế Roma- 



Trong bản mục lục của các vị Tổng trấn của đế quốc Roma còn ghi thêm: “ Giêsu Kitô trong thời kỳ Tổng trần C. Augustus và L. Aemilianus Paulus vào ngày 25. tháng 12, vào ngày thứ Sáu trong tuần lễ, vào ngày thứ 15. của tháng theo lịch mặt trăng, đã sinh ra đời.” . 



Ghi chép lại như thế để báo cáo về những sự việc xảy ra gửi về trung ương chính trị Roma, nơi hoàng đế trị vì. Và ngày 25.12. nêu ra dường như chỉ là biến cố lễ mừng tôn giáo nhiều hơn. Nhưng ngày 25. 12. thời gian những năm trước đó có phải là ngày lễ mừng không, điều này không rõ cho lắm. 



Ở Roma ngày 25.tháng 12 là ngày sinh nhật Chúa Giêsu trước hết được mừng theo như bài giảng ngày lễ giáng sinh của Thánh Hyronymus ngay nơi phần đầu. Nhưng Afrikanus không căn cứ theo đó để công nhận nguồn gốc ngày 25. 12. Trái lại còn có những gỉa thuyết khác nói về nguồn gốc khởi thủy của ngày này nữa. 



Ngày 25.12. là ngày tạ ơn được Giáo hội lập ra, vì sự thắng trận của Hoàng đế Contanstino ở Constantinopel. Ngày lễ này có sau năm 313, có lẽ vào năm 380.



Ngày 24.12. là ngày mừng sinh nhật Thần Mặt Trời – Sol Invictus – do Hòang đế Aurelius lập ra - Lễ nghi kính thờ thần này có vào năm 275 - . 



Theo lịch Julius vào ngày 25.12. thời tiết chuyển sang mùa đông. Vào ngày này cũng là ngày mừng sinh nhật của Thần Mithras. Có lẽ vào khoảng năm 300 ngày lễ mừng này được ấn định. Và như thế nếu so sánh với thời gian Chúa Giêsu Kitô và mặt trời cùng sự việc, hiểu được rằng, với lễ mừng lễ sinh nhật ở thành Roma đạt tới cao điểm lễ nghi thờ thần mặt trời. 



Tưởng nhớ tới mặt trời công chính “Sol invictus”, vị chiến thắng sự chết, cũng liên tuởng đến sự hài hòa trong vũ trụ theo trật tự do Thiên Chúa ấn định: Theo trật tự này lịch theo mặt trời quy định tính ra như sau, vào tiết Thu phân ngày 24.tháng Chín ngày Thánh Gioan tiền hô thụ thai trong cung lòng mẹ, rồi chuyển sang tiết Hạ chí mùa hè ngày 24.tháng sáu là ngày sinh nhật của Ông; Cũng thế vào tiết Xuân phân Chúa Giêsu thụ thai trong cung lòng đức mẹ Maria và sang tiết Đông chí mùa đông sẽ là ngày sinh nhật của ngài. 



Thuyết về ngày lễ mừng Sol invictus có ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hóa, đến đời sống Giáo Hội thời đạo Công giáo lúc ban đầu. Và trong dòng thời gian lịch sử đạo Công giáo từ hơn hai ngàn năm nay, việc biến đổi, công nhận hay rửa tội những thói tục của nền văn hóa đạo nghĩa dân gian, mà quen gọi là “bên lương hay không có đạo!”, cho trở thành theo ý nghĩa Công giáo, cũng không phải là chuyện gì xa lạ bất thường. Như trong trường hợp cắt nghĩa lại ngày lễ thờ Sol invictus 25. Tháng 12. Vào những ngày cuối tháng 12 trong năm, con người ở vùng bắc bán cầu sống trong khao khát mong mỏi ánh sáng đến xua đuổi sự tối tăm lạnh rét mùa đông trong trời đất, Giáo Hội Công giáo đã công nhận “rửa tội” cho ngày lễ đó thành ngày lễ giáng sinh Chúa Giệsu, Đấng là ánh sáng trần gian, là mặt trời công chính, mang ánh sáng hơi nồng ấm đến trần gian đang sống trong bóng tối tội lỗi, cho thích hợp với giáo lý đạo Công giáo.



Trong dòng thời gian lịch sử Giáo Hội Chúa Giêsu dẫu vậy vẫn có hai ngày khác nhau mừng sinh nhật Chúa Giêsu: Giáo Hội Công Giáo Roma mừng vào ngày 25. tháng 12, nhưng Giáo Hội Chính Thống mừng vào ngày 06. tháng Giêng hằng năm.



Theo Phúc âm thuật ghi chép lại: Chúa Giêsu sinh ra được đặt nằm nằm trong máng của xúc vật ăn thay vì trong một nôi có chăn chiếu ấm êm. Thật thương tâm cám cảnh! 



Trong hoàn cảnh thiếu thốn bơ vơ giữa đường, cha mẹ Chúa Giêsu phải làm xử sự như vậy. Nhưng đối với người tín hữu Chúa Kito lại mang một ý nghĩa đạo giáo tinh thần cao đẹp khác hơn. 



3. Chiếc máng cỏ 



Không có sử sách nào ghi lại rõ hình thù chiếc máng cỏ lúc Chúa Giêsu sinh ra như thế nào ở Bethlehem ngày xưa. Theo tương truyền những mảnh gỗ máng cỏ Chúa Giêsu nằm lúc sinh ra còn lưu giữ ở đền thờ Đức Bà cả S. Maria Maggiore bên Roma. Điều này không có gì chắc chắn đúng trăm phần trăm cả.



Chúa Giêsu sinh ra nằm trong máng cỏ với cái nhìn và nhận xét của con người là việc qúa nghèo nàn cùng tầm thưòng hèn hạ. Nhưng điều này lại mang một hình ảnh tinh thần rất có ý nghĩa: Con người chúng ta được sinh ra trong một nôi chuồng có sự che chở bao bọc của Thiên Chúa. 



Máng để cỏ rơm cho thú vật ăn, máng chứa nước cho súc vật uống. Như thế máng cỏ cho súc vật trở thành chén bát, cái thau chứa đựng thực phẩm dinh dưỡng nuôi sống súc vật trong chuồng trong trại.



Chúa Giêsu khi sinh ra nằm trong máng chứa đựng thực phẩm sự sống, rồi sau này Ngài với sứ vụ đem sự sống ơn cứu rỗi cho con người, nói lên hàm chứa ý nghĩa rất tương đồng thích hợp.



Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa từ trời sinh xuống làm người đã chấp nhận cảnh sống nghèo nàn cúi mình nằm xuống trong máng cho súc vật ăn, nói lên nếp sống khiêm cung sâu thẳm.



Chúa Giêsu sinh ra được đặt nằm trong máng ăn của súc vật còn nói lên ý nghĩa kính trọng thiên nhiên: những gì Thiên Chúa tạo dựng nên cho con người, cho súc vật để sinh sống, không có gì tầm thường hèn hạ.



Gương sống lòng chan chứa tình yêu thương và lòng khiêm cung, con người chúng ta thấy cụ thể nơi cha mẹ mình. Trong đời sống con người, hầu như cha mẹ nào cũng chấp nhận những hy sinh tận cùng nhất để cho con cái mình, nhất là người con còn nhỏ thơ bé, được có đời sống khoẻ mạnh tươi tốt.



************ 



Càng ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu ngày 25. tháng 12. như càng nhuốm mầu sắc lễ hội, mầu sắc thương mại, cùng đôi chỗ, đôi lúc có pha lẫn chính trị vào nữa. Đó là tiến trình trong nếp sống văn hóa xã hội thay đổi lên xuống.



Nhưng cốt lõi chính yếu ngày lễ mừng vẫn lễ ánh sáng hòa bình Chúa Giêsu mang xuống cho nhân lọai từ trời cao. 



Sứ điệp ngày lễ mừng sinh nhật Đấng Cứu Thế trước sau cũng vẫn luôn là tin mừng tình yêu thương tha thứ làm hòa giữa Trời và đất, giữa Thiên Chúa với con người trần gian.



“Từ hang đá Chúa giáng sinh Bethlehem không phát tỏa ra điều ảo tưởng nào, nhưng là điều chắc chắn bảo đảm: con người không bị giao nộp trong những phiên tòa phân xử lịch sử cũng như sinh vật học. Thiên Chúa và Chúa Giêsu luôn hằng đồng với con người trong mọi hòan cảnh đời sống và luôn gìn giữ che chở họ.” như lời Đức giáo hoàng Benedictô 16. ngày 15.12.2011 ngỏ lời với 10.000 sinh viên và giáo sư các đại học thành Roma trong buổi đọc kinh chiều theo truyền thống vào mùa Vọng. 



Mừng lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh



Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long