ÍT ĐIỀU NÊN LƯU Ý VỀ MỤC VỤ HÔN PHỐI
A.VIỆC ĐIỀU TRA TRƯỚC HÔN PHỐI.
B. RIÊNG VỀ MẤY NGĂN TRỞ HÔN PHỐI.
C. HÌNH THỨC KẾT HÔN VÀ VIỆC CHỨNG HÔN.
D. VỀ ĐẶC ÂN THÁNH PHAOLÔ.
E. VIỆC GHI SỔ SÁCH.
A- VIỆC ĐIỀU TRA TIỀN HÔN (DE INVESTIGATIONE PRAEMATRIMONIALI)
I. LUẬT ĐIỀU TRA.
“ Trước khi thành hôn phải biết chắc không có gì ngăn trở để kết hôn thành và thích pháp.”(Can.1066,§)
Để được biết chắc như thế, một trong các phương thế Giáo hội dạy, là điều tra cho kỹ lưỡng trước khi kết hôn.
Chiếu theo Can.1067 và Huấn thị SACROSANCTUM ngày 29.6.1941 của Thánh bộ Bí tích, chúng ta nên lưu ý mấy điểm sau:
1/ Ai điều tra?
· Là Cha xứ (sở) có quyền chứng hôn, tức là cứ thường lệ Cha xứ đàng gái (Can.1115§ 2), dù Ngài có đồng ý cho đôi hôn phối thành hôn ở giáo xứ đàng trai hay ở một giáo xứ khác.
· Việc điều tra này buộc nhặt (sub gravi) dù cha xứ chắc (moraliter certus) không có gì ngăn trở cũng phải thi hành.
· Và phải đích thân làm lấy, trừ khi có lý do chính đáng mới được nhờ người khác (H.T. Sacrosanctum, số 4).
· Còn cha xứ đàng trai và cha khác, nếu có liên hệ, tự động hay do chính vị hôn phu hoặc cha xứ của y xin, phải sẵn sàng giúp việc điều tra đó. (Ibid)
2/ Điều tra lúc nào?
· Phải điều tra vào thời gian thích hợp (tempore opportuno) trước khi kết hôn, nghĩa là trước hoặc trong thời gian hôn phối.
3. Điều tra về những gì?
· Phải dò xét tất cả những gì có thể ngăn trở cho vụ hôn phối bất cứ cách nào.
a/ Trước hết là Bí tích rửa tội và Bí tích thêm sức, coi đã lãnh nhận chưa, nơi lãnh nhận… (Sacrosanctum, số 4, C).
- Chiếu theo Can.1122 nếu đương sự đã không được rửa tội tại xứ hay sở của cha, thì ngài phải đòi Chứng Chỉ Rửa Tội của cả hai bên hoặc của bên Công Giáo, nếu là hôn phối được chuẩn ngăn trở dị giáo; nếu là hôn phối xin chuẩn ngăn trở tạp giáo, thì đòi Chứng Chỉ Rửa Tội cả bên Kitô-hữu không công giáo.
- Theo Huấn Thị Sacrosanctum, Chứng Chỉ Rửa Tội phải mới được cấp chưa quá 6 tháng tính đến ngày định thành hôn. Huấn Thị dạy như vậy, nhưng thiết tưởng khi không có lý gì mà nghi đương sự đã có đôi bạn, thì chứng chỉ cấp đã lâu cũng được. Và chứng chỉ đó phải được trích lục từ Sổ Rửa Tội của giáo xứ (giáo sở) và trong đó phải ghi đầy đủ những điều cần phải ghi chú theo Can. (xem sau đây Đ.2: về việc ghi sổ sách).
- Trường hợp nguy tử, nếu không thể có bằng chứng gì hơn, thì đương sự thề mà qủa quyết mình đã chịu phép Rửa tội là đủ (Can.1068). Ngoài trường hợp nguy tử, nếu không có chứng chỉ chính thức trích sao từ Sổ Rửa Tội của giáo xứ, thì một nhân chứng thật chắc chắn cũng đủ, hay nếu đương sự chịu phép Rửa tội khi đã khôn lớn thì chính người ấy thề quả quyết mình đã chịu phép Rửa tội cũng được.
b/ Tiếp đến là điều tra xem đôi hôn phối có liên hệ với những giáo xứ hay giáo sở nào để nếu cần thì sẽ rao ở đó, hay sẽ phải thông báo một khi đã thành hôn: xem họ đã đến tuổi thành niên hay còn là vị thành niên; xem cả hai hay ít ra một bên là góa thì thì lại phải điều tra về cái chết của người bạn cũ của họ để biết chắc không có gì ngăn trở đôi hôn phối, và còn xét coi giữa hai người toan kết hôn có ngăn trở họ kết bạn, ngăn trở công hạnh hay ngăn trở tội ác chăng.
c/ Cha xứ, cha sở phải hỏi vị hôn phu và vị hôn thê, hỏi riêng lẻ và một cách khôn ngoan, khéo léo, tế nhị, dè dặt… xem họ có mắc ngăn trở gì không – có tự do ưng thuận hay bị ai ép buộc (Can.1066).
- Theo H.T.Sacrosanctum thì đây là lúc lấy KHẨU CUNG theo mẫu số 1 (có tờ in sẵn), nhưng vì có những câu hỏi sau khi học giáo lý hôn phối mới để trả lời, nên chúng ta thường lấy khẩu cung sau khi đã dạy đủ giáo lý, miễn là trước khi cho kết hôn.
II. VỀ RAO HÔN PHỐI
Rao hôn phối là 1 phương thức điều tra, Giáo Luật buộc phải thi hành (Can.1067) và thỉnh thoảng nên nhắc cho tín hữu nếu biết ngăn trở gì thì buộc phải báo cáo cho Cha xứ hay Đấng Bản quyền (Can.1069).
· Bình thường phải rao đủ ba lần.
· Theo Năng Quyền thập niên số 30, cha xứ (sở) được chuẩn rao 01 lần, miễn là có lý do chính đáng và chắc chắn không có ngăn trở nào.
· Cha quản hạt được chuẩn rao 02 lần (N.Q.T.N số 33).
· Chỉ Đấng Bản quyền mới được rao 03 lần.
· Trái lại, những vụ hôn phối được chuẩn ngăn trở khác tôn giáo thì không rao
· Nếu đàng trai thuộc một giáo xứ hay một giáo sở khác, thì phải rao cả hai nơi: Nếu có một bên nào – sau 14 tuổi – đã ở nơi nào khác quá 06 tháng, thì phải xin ý kiến Đấng Bản quyền coi có cần rao nơi đó không; nếu có lý do mà nghi có ngăn trở, thì cũng xin ý kiến như vậy.
III. CHUYỂN HỒ SƠ
Các cha xứ (sở) đã được xin điều tra, xin rao hôn phối, phải cố gắng làm tốt và sớm, và sau khi làm xong gởi cho cha xứ (sở) đàng gái đã xin rao: Văn thư điều tra, chứng chỉ rao, chứng chỉ rửa tội, thêm sức v.v… hay có tài liệu gì khác trong văn hàm xứ sở mình liên quan đến vụ hôn phối.
IV. KHẢO VÀ DẠY GIÁO LÝ.
Cha xứ phải khảo hạch đôi hôn phối, xem họ có biết đủ Giáo Lý Công Giáo không (cách riêng về Bí Tích Hôn Phối).
· Theo U.B. Giải thích Giáo Luật của Toà Thánh ngày 23-6-1918 và Cộng Đồng Đông Dương, số 262, nếu thấy đôi hôn phối dốt Giáo Lý, thì hãy chịu khó dạy kỹ cho họ ít là những điều căn bản của Giáo Lý Công Giáo; (nếu họ không chịu học thì cũng phải chứng hôn cho họ, không được xử họ như là một tội nhân công khai, theo Can.1066)
Do đó, thiết tưởng chúng ta nên uyển chuyển trong vấn đề này, nhất là đối với hoàn cảnh khó khăn hiện nay; không nên bắt học thuộc lòng nhiều quá: Chúng ta nên chịu khó dạy cho họ hiểu là đủ.
· Những người xin theo đạo để cưới vợ lấy chồng, mà lại trong hoàn cảnh khó khăn, thì phải hiểu đó là trường hợp ngoại thường. Vậy thiết tưởng nên xử trí một cách uyển chuyển, theo khả năng của họ. Dĩ nhiên phải cố gắng dạy cho họ biết Giáo lý tối thiểu, để họ có thể có một đức tin chân thật, sống đạo có căn bản, chứ không phải chỉ dạy qua loa sơ sài… Nhưng nếu đòi hỏi quá kéo dài thời gian, có thể thiệt hại cho họ, làm họ chán nản, có thể sinh ác cảm với đạo Công giáo, hay liều về sống chung với nhau, sinh gương xấu… và “rối”.
B- VỀ CÁC NGĂN TRỞ HÔN PHỐI
Chúng ta đã thấy Giáo luật buộc cha xứ (sở) phải điều tra kỹ lưỡng xem đôi hôn phối có mắc ngăn trở gì không (x cc 1073-1094). Cũng biết chúng ta có quyền chuẩn một số ngăn trở. Do đó, chúng ta cần hiểu rõ các ngăn trở, phân biệt các ngăn trở nào là do luật tự nhiên hay luật Thiên Chúa, những ngăn trở nào là do luật Giáo Hội, ngăn trở nào là thượng đẳng, ngăn trở nào là hạ đẳng. Chúng ta nên xem kỹ lại bản giải thích các Năng Quyền Thập Niên đã phát cho chúng ta từ trang 68-78.
Sau đây, xin lưu ý thêm về mấy ngăn trở.
Ngăn trở khác đạo. Chúng ta biết:
· Ngăn trở khác đạo giữa một người đã rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo (hoặc) đã rửa tội trong một giáo phái Kitô giáo không công giáo mà sau đã gia nhập Công giáo (và) một người Kitô hữu không Công giáo, được gọi là ngăn trở tạp giáo và là ngăn trở cấm hôn.
· Ngăn trở khác đạo giữa một người Công giáo và một người lương không hay chưa rửa tội được gọi là ngăn trở dị giáo và là ngăn trở tiêu hôn (impedimentum dirimens), thượng đẳng.
Trước đây, Giáo Hội Công Giáo rất khắc khe đối với những vụ hôn phối khác tôn giáo (Cc 1124-1129). Nhưng ngày 31-3-1970 Đức Phaolô VI đã ban hành Tư Sắc Matrimonia Mixta (MM) làm dịu bớt các đòi hỏi trước, nhất là về các cam kết (cautiones).
Thiết tưởng, chúng ta cũng nên vì hoàn cảnh thay đổi mà dễ dãi hơn, nhất là đối với những trường hợp GỠ RỐI để bên Công Giáo được yên lương tâm, được hưởng các ân huệ của Hội Thánh và con cái họ được chính thức hóa. Lý do GỠ RỐI này (ut cesset publicus concubinatus) là một lý do mạnh để ban Ơn Chuẩn.
Theo Tự Sắc Matrimonia Mixta, để được chuẩn ngăn trở khác đạo, chỉ cần những điều kiện sau đây:
1/ Người bạn Công giáo phải làm hai điều:
a. Một là tuyên bố mình sẵn sàng tránh những nguy hiểm làm mất Đức Tin của mình.
b. Hai là thành thật hứa (buột nhặt) sẽ lo liệu hết sức đề con cái ĐÃ hay SẼ SINH được rửa tội và giáo dục trong Giáo Hội Công Giáo.
2/ Phải cho người bạn không Công giáo hiểu rõ những điều người bạn Công giáo phải cam kết, để người ấy ý thức người bạn Công giáo cam kết những gì, buộc làm những gì.
3/ Phải dạy cho cả hai bên biết các mục đích và hai đặc tính của hôn nhân, mà không bên nào được loại bỏ một đặc tính nào. Ngoài ra, cần dạy giáo lý cho bên Công giáo thật kỹ càng, giúp người ấy sống đức tin thật vững vàng, ý thức nhiệm vụ của mình, làm gương tốt… để người ấy nhờ đó sẽ cảm hóa người bạn không Công giáo (và gia đình) gây cảm tình đối với đạo Công giáo.
III. HÌNH THỨC PHỤNG VỤ NÓI ĐƯỢC LÀ CÓ 3 NGHI LỄ HÔN PHỐI:
1. Trong Thánh lễ (S.Lễ mùa Vọng, trg.341-349)
2. Ngoài Thánh lễ (S.Lễ mùa Vọng,trg.352-359)
3. Giữa người Công giáo và người chưa rửa tội (S.Lễ mùa Vọng, trg. 354-356)
IV. THEO HÌNH THỨC NÀO?
1/ Bình thường, đôi hôn phối của hai người công giáo phải được cử hành theo hình thức pháp lý thông thường, kèm theo hình thức Phụng vụ, trong thánh lễ, hoặc ngoài thành lễ khi có lý do chính đáng.
2/ Hôn phối giữa một người Công giáo và một người không Công giáo (được chuẩn ngăn trở khác đạo) cũng phải cử hành theo hình thức pháp lý thông thường; nhưng khi có lý do quan trọng thì Đấng Bản Quyền được chuẩn, miễn là giữ được tính cách công khai cho tòa ngoài (TS Matrimonia Mixta, số 8,9).
Còn về hình thức phụng vụ:
· Nếu bên kia là người Kitô giáo không công giáo, thì cử hành theo nghi thức ngoài Thánh lễ, nhưng khi Đấng Bản Quyền đồng ý, thì được cử hành trong Thánh lễ, trừ việc người không công giáo KHÔNG RƯỚC LỄ.
· Nếu người bên kia là lương (chưa rửa tội) thì theo nghi thức riêng, nói ở khoảng III, 3 trên đây
3/ Khi cử hành hôn phối khác đạo (đã được chuẩn ngăn trở), nếu có lý do chính đáng, có thể bỏ hình thức Phụng vụ.
Khi cử hành hôn phối theo hình thức pháp lý ngoại thường hay đặc biệt, có thể ngần nào thì cũng nên kèm theo nghi thức phụng vụ (ít là đọc Lời Chúa); nhưng có lý do hợp lẽ, thì bỏ hết nghi thức phụng vụ.
V. “PHÉP GIAO” LÀ GÌ?
Như vậy, chúng ta thấy hình thức kết hôn mà người ta quen gọi là PHÉP GIAO không có nghĩa là chỉ cử hành hôn phối theo hình thức pháp lý không kèm theo hình thức phụng vụ. PHÉP GIAO chỉ là cử hành hôn phối theo hình thức phụng vụ ngoài Thánh lễ, một cách khiêm tốn, âm thầm, không long trọng, không rầm rộ… Đây thường là một biện pháp kỷ luật, theo thói quen từ lâu trong nhiều giáo xứ Việt Nam (nhất là trong các địa phận ĐÀNG NGOÀI) áp dụng cho những đôi hôn phối ít xứng đáng, đã làm gương xấu (Ví dụ đã công khai sống chung với nhau, đã “mang bầu” rõ ràng trước khi kết hôn theo tôn giáo,v.v…)
Nói là: “theo thói quen các giáo xứ Việt Nam ” vì luật chung không có các biện pháp kỷ luật đó.
VI. KẾT HÔN Ở ĐÂU?
Bình thường, hôn phối phải cử hành trong nhà thờ, mà là nhà thờ xứ. Nhưng khi có lý do chính đáng, thì được cử hành tại cư gia.(Can.1116) (cf.CĐĐD,số 277).
D- VỀ ĐẶC ÂN THÁNH PHAOLÔ
1- HÔN PHỐI GIỮA 2 NGƯỜI LƯƠNG (NGHĨA LÀ KHÔNG RỬA TỘI):
Hôn phối giữa 2 người lương (nghĩa la không rửa tội) nếu thành là chính đáng (matromonium legitimum) và theo luật tự nhiên, nó cũng phải có tính cách bền vững. Tuy nhiên vì không phải là bí tích, nên sự bền vững đó không tuyệt đối. Vì thế, theo I Cor.VII.15 thì khi 1 trong 2 người trở lại đạo công giáo, nếu người không trở lại hay không chịu sống chung hòa thuận khỏi làm sỉ nhục Đấng Tạo Hóa, thì người đã trở lại đạo công giáo có quyền kết hôn với 1 người công giáo và hôn phối trước bị ĐOẠN TIÊU, đó là đặc ân đức Tin (privilegium Fidei) hay đặc ân Thánh Phaolo (privilegium Paulinum: cc.1143 – 1147)
2- ĐIỀU KIỆN
a. Hôn phối giữa hai người lương thành, nghĩa là có hôn phối thật sự.
b. Một bên trở lại đạo công giáo, bên kia cứ đi lương.
c. Bên đi lương bỏ (discedit) bên công giáo: (discessus physicus) BỎ THẾ LÝ hay (discessus moralis) BỎ TINH THẦN.
3- GIẢI THÍCH 3 ĐIỀU KIỆN:
a. Hôn phối thành giữa hai người lương: LƯƠNG đây phải là chưa rửa tội, dù là dự tòng. Nếu 1 bên rửa tội ngoài công giáo, 1 bên lương thì không có đặc ân Thánh Phaolo theo đúng nghĩa, nhưng trường hợp đặc biệt, có lợi cho đức tin (cho đạo) thì Tòa Thánh có thể tháo gỡ hôn phối đó để người trở lại công giáo được kết hôn (chữa tận căn sanatio in radice) với một người công giáo khác.
Toà Thánh có ban quyền cho các Giám Mục VN, được tháo gỡ hôn phối như vậy do Năng Quyền đặc biệt, 5.5.1972 (số 2)
Hôn phối giữa 2 người lương là thành:
- Khi có cưới hỏi, có giá thú đàng hoàng.
- Khi chính hai vợ chồng tự coi mình là vợ chồng thật và cả láng giềng bà con cũng con như thế, không thắc mắc.
- Dù HỒ NGHI thì cũng phải cho là thành: (In dubio standum est pro valore matrimonii. Can.1060).
b. Một bên trở lại công giáo: Việc một bên trở lại đạo công giáo là chịu phép rửa tội trong giáo hội công giáo, tự nó không đoạn tiêu hôn phối giữa hai người lương, nhưng chỉ BAN QUYỀN cho người trở lại công giáo được hỏi (interpellare) người bạn còn đi lương. Nếu người này trả lời PHỦ QUYẾT, thì bên trở lại công giáo được quyền đi kết hôn với người công giáo, và chỉ khi kết hôn thật sự, thì dây hôn phối trước mới đứt.
Để dùng đặc ân Thánh Phaolo thành pháp (valide) thì một bên trở lại và rửa tội rồi, bên kia chưa rửa tội là đủ. Nhưng để thích pháp (licite) thì sự trở lại công giáo đó phải chân thành, vì chỉ có thế thì chịu phép rửa tội mới thích pháp.
Do đó, thường phải bảo người muốn trở lại công giáo về điều đó trước khi làm phép rửa tội cho họ. Nếu không có ý ngay lành, không thật lòng muốn chung sống hoặc làm hòa lại với người bạn hợp pháp hay là mưu mô để người ấy bỏ đi… thì không có điều kiện để chịu phép rửa tội. Tuy nhiên, nếu thấy bảo vô ích thì có khi không nên QUẤY RỐI lòng ngay. (Vromant, De Matrim.N.285sq)
c. Bên còn đi lương bỏ đi
- Bỏ thể lý : Thật sự đã không còn sống chung, hoặc hỏi mà từ chối hẳn việc sống chung: (dissessus có thể là formalis hay materialis)
- Bỏ tinh thần: Muốn sống chung nhưng không sống hòa thuận, không làm sỉ nhục Đấng Tạo Hóa (pacifice sine contumelia Creatoris): chế nhạo đạo thánh, nói hay làm những điều nguy hiểm cho Đức Tin hay đạo đức của bên công giáo, hoặc hay cãi cọ mắng chửi, đập đánh,v.v…
4 - INTERPELLATIO (HỎI)
Để chứng minh “sự bỏ đi” của người bạn bên lương, thì phải HỎI (danh từ Giáo Luật là Interpellare) người ấy hai điều:
a. Có muốn trở lại đạo công giáo, chịu phép Rửa tội như người bạn kia không?
b. Có bằng lòng sống chung với người bạn đã đi đạo công giáo cách hòa thuận, không sỉ nhục đến Đấng Tạo Hóa không?(Can.1144 § 21)
CÁC CHI TIẾT:
1/ Thời gian hỏi:
Thường phải hỏi SAU KHI bên trở lại công giáo đã được rửa tội, trước khi kết hôn với người công giáo. Trường hợp có lý do quan trọng, thì Đấng Bản Quyền có thể cho phép hỏi trước khi rửa tội. (T.S.Pastorale munus, số 23).
2/ Hỏi ai?
Phải hỏi chính người bạn còn đi lương, và hỏi nhân danh người bạn đã trở lại đạo công giáo.
3/ Trường hợp nào phải hỏi?
Phải hỏi luôn, trừ khi Toà Thánh đã tuyên bố thể khác (Can.1114).
Dù thấy hỏi mà vô ích cũng vẫn cứ hỏi, nhưng khi không thể hỏi được hay thấy hỏi mà vô ích, thì có thể xin Đấng Bản Quyền chuẩn cho khỏi hỏi. Thường Đấng Bản Quyền chỉ được chuẩn hỏi sau khi người bạn trở lại công giáo đã được rửa tội. Nhưng nếu có lý do quan trọng. Ngài có thể chuẩn hỏi trước khi rửa tội.(Pastorale munus số 23).
Trong cả hai trường hợp (chuẩn hỏi, chuẩn trước rửa tội) trước khi ban Ơn Chuẩn, phải làm thủ tục điều tra về lý do, ít là theo lối hành chánh (processu summario extrajudiciali). Nếu bỏ câu hỏi 1, chỉ hỏi câu 2 và người ấy trả lời KHÔNG thì dùng Đặc Ân thành.
4/ Hình thức hỏi.
Có 3 hình thức hỏi:
- Hỏi tư (riêng) privatim.
- Theo lối Toà An (có trát gọi, có thẩm phán.v.v…)
- Lối ngoài Toà An, tức là lối hành chánh.
Hai hình thức sau là chính thức (authentica) làm do lệnh Đấng Bản Quyền của người tân tòng.
5/ Hỏi thế nào?
a. Phải hỏi THẲNG, đừng nói loanh quanh, úp mở, mà phải nói rõ là nếu… thì người tân tòng có quyền đi lấy chồng hay vợ công giáo.
b. Phải hỏi DO QUYỀN của Đấng Bản Quyền và nhân danh người tân tòng. Nếu đương sự yêu cầu thì Đấng Bản Quyền phải cho họ một thời gian để suy tính, và bảo họ, nếu quá thời gian đó mà không trả lời thì coi như trả lời PHỦ QUYẾT.
c. Đại diện Đấng Bản Quyền có thể là Cha Xứ hay một giáo sĩ hoặc giáo dân đứng đắn, khôn ngoan. Nếu 1 người không chắc thì nên có thêm 1 nhân chứng nữa. Phải ủy quyền bằng văn thư. Và thường nếu giao cho 1 giáo sĩ chức nhỏ hay 1 giáo dân thì bắt họ thề làm việc cho đàng hoàng. Khi hỏi phải làm biên bản hay báo cáo viết thành văn (2 bản).
d. Hỏi tư là khi người tân tòng tự ý hỏi lấy nhân danh cá nhân y, hoặc do Đấng Bản Quyền cho phép. Dù người tân tòng tự ý hỏi lấy, nếu Đấng Bản Quyền xét thấy có giá trị, Ngài có thể cho là đủ, nhưng phải có bằng chứng để có giá trị ở Toà ngoài – thí dụ- có hai nhân chứng. Trường hợp không hỏi được chính thức thì phải hỏi như vậy; nhưng nếu có thể thì chính linh mục hỏi lấy. Trong mỗi trường hợp, các câu hỏi và các câu trả lời phải được viết vào giấy. Cũng có thể hỏi BẰNG THƯ (gởi tay cách chắc hoặc bảo đảm) và cho một thời hạn đủ rộng rãi để trả lời (Syn.Tunq.Tit.III,c III.1,5)
N Q T A: Để tránh những rắc rối có thể xảy đến, cần bảo người bạn tân tòng, trước khi tái hôn với người công giáo hãy liệu giải quyết vụ hôn phối trước cho dứt khoát đi đã – thí dụ – ly dị ở toà đời (nếu trước có giá thú) hoặc tuyên bố trước mặt gia đình người bạn cũ, hoặc hai bên làm giấy dứt khoát bỏ nhau, bên người tân tòng giữ một bản.
E/ VỀ VIỆC GHI SỔ SÁCH.
1- Cử hành Phép Hôn Phối xong, linh mục quản xứ phải ghi vào sổ hôn phối (những điều đã in sẵn trong sổ) (cc.1121).
Nếu là hôn phối có phép chuẩn: phải ghi chú điều đó bên lề và giữ văn bản tha ngăn trở cùng với tờ khai khẩu cung (cc.1121/3)
2- Phải ghi chú hôn phối vào sổ rửa tội của người lãnh Bí Tích Hôn Phối, nếu họ đã được rửa tội trong giáo xứ (cc.1122/1)
Phải thông báo (notificatio) cho giáo xứ nơi những người ấy đã chịu phép Rửa tội để ghi vào sổ (cc.1122/2).