Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2008

Thánh Tôma Trần Văn Thiện (1820-1838)


TUỔI TRẺ HÀO HÙNG

Trong một phiên tòa năm 1838, viên quan án xúc động trước người tù trẻ tuổi với dáng dấp thư sinh nho nhã, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, hứa hẹn một tương lai sáng lạn. Ông nói với anh thật dịu dàng: "Nếu con bỏ đạo, ta sẽ gả con gái cho và sẽ lo liệu cho con làm quan".


Chàng thanh niên trẻ tuổi ấy, anh Toma Trần Văn Thiện đã thẳng thắn trả lời: "Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng chi danh vọng trần thế".


Tuy mới 18 tuổi xuân xanh, lứa tuổi yêu đời ham sống, chưa nếm mùi khổ đau cuộc đời, cũng chưa được học tập thâm sâu về giáo lý, anh Toma Thiện vừa mới tới ngưỡng cửa chủng viện, đã ứng phó khéo léo trước bạo lực, đâu thua kém gì bất cứ chiến sỹ đức tin nào khác trên hoàn cầu. Quả thực, anh đã thấu hiểu lời Đức Kitô: "Được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn linh hồn thì có ích gì?" (Mt. 16,26).

CON MUỐN " Ở CHÚ" VỚI CHA KHÔNG?

"Chú Thiện", như người đương thời quen gọi các chủng sinh, sinh năm 1820 trong một gia đình đạo hạnh làng Trung Quán, tỉnh Quảng Bình. Nữ tu Madalena Yến, một nhân chứng sống cùng thời thuật lại rằng: "Chú Thiện có một người dì gọi là dì Nghị, làm bà nhất nhà phước Trung Quán. Chú thường lui tới thăm dì và tỏ ra rất ngoan ngoãn, nhu mì, lễ phép. Khi linh mục đến dâng lễ ở họ nhà, chú quỳ dự lễ một cách nghiêm trang. Lên 8, 9 tuổi, chú bắt đầu học chữ Nho, tỏ ra thông minh, bền chí và tiến bộ rất nhanh.


Có lần chú theo dì Nghị đi lễ ở họ Mỹ Lương, sau lễ vào chào các linh mục. Các cha thấy cậu bé khôi ngô, hiền lành đều hỏi: "Con có muốn ở chú (đi tu) với cha không?". Cậu Toma Thiện không thưa gì. Nhưng chỉ ít lâu sau, người ta thấy chú thường xuyên ở nhà cha Chính, họ Kẻ sen. Vị linh mục nầy đã dạy tiếng Latinh cho chú nhiều năm.

HÃY NHÌN XEM MÁU TÔI CHẢY RA KÌA

Nhờ tính tình tốt lành và trí thông minh, năm 18 tuổi (1838), chú Thiện được cha giám đốc Candalh Kim gọi về chủng viện Di Loan, Quảng Trị. Nhận được tin, chú Thiện cùng với người chị tên Sao hăng hái lên đường. Dọc đường, hai chị em gặp nữ tu Yến từ Di Loan về cho biết cha bề trên Candalh Kim đã phải trốn và quân lính đang lùng bắt. Rồi chị khuyên hai chị em đừng đi nữa, nhưng chú Thiện tỏ ra cuơng quyết: "Dầu không gặp cha bề trên, con cũng phải đến tận nơi để biết rõ sự thể. Cha đã gọi, không lẽ chưa đến nơi đã bỏ về".


Tới chủng viện, hai chị em trình diện với cha Tự. Ngài nói: "Chúng tôi lo trốn chưa xong mà chị còn dẫn em đến, chỉ làm thêm khó khăn cho chúng tôi thôi". Chị Sao đáp: "Thưa cha, em con nhờ con dẫn đi, vì có giấy cha bề trên gọi. Chúng con không biết cuộc bắt đạo lại xảy ra bất ngờ như thế".

Hai ngày sau, quân lính bao vây làng Di Loan, lục soát từng nhà. Không tìm thấy cha Kim, nên truyền tra hỏi cặn kẽ để biết cha bề trên trốn ở đâu. Quan khuyên chú chối đạo, nếu không sẽ bị chết.


Chú Thiện thành thật trả lời: "Tôi quê ở Trung Quán, Quảng Bình, đến tìm thầy học đạo. Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật. Tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo".


Quan tỏ ra khoan nhượng khuyên chú Thiện nhiều lần: Nào là tuổi còn nhỏ, tương lai còn nhiều triển vọng, nào là sẽ thăng quan tiến chư'c nếu bỏ đạo. Hơn thế nữa, quan còn muốn nhận chú làm con rể mình và sẽ đứng ra lo liệu cưới xin. Nhưng chú Thiện đã từ chối: "Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế".


Lời khẳng khái ấy không phải ai cũng thốt ra được. Trong số những người bị bắt, nhiều người tỏ vẻ luyến tiếc cho chú đã bỏ lỡ một "cơ hội ngàn vàng". Chàng trai có vóc dáng thư sinh nhưng ý chí thật kiên cường khiến quan phải ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên đến tức giận, vì dám xúc phạm đến sự "bao dung" và lòng "ưu ái" của mình, thế là ông truyền đánh đòn chàng. Bốn mươi roi đòn quất trên thân thể gầy yếu, máu chảy thấm qua y phục, nhưng vị nhân chứng không lay chuyển, vẫn gan dạ mĩm cười nói: "Hãy nhìn xem máu tôi chảy ra kìa".


Thấy chú can đảm hơn người, quan truyền đóng gông xiềng giam chú Thiện vào ngục.


Trong ngục thất, Toma Thiện không có bà con thân thích nào đến chăm nom tiếp tế. Các giáo hữu Di Loan cũng bị bắt, lúc đầu còn chia sẻ cho chú chút lương thực nhưng sau họ không cho gì nữa. Họ đã nghe quan dụ dỗ để mong trở về với gia đình. Tuy thế quan vẫn chưa thả họ ngay. Vì muốn chú Thiện phải khuất phục, quan dùng những kẻ nhẹ dạ gây áp lực nhưng Toma Thiện trước sau vẫn một mực trung thành với đức tin.


Chú Thiện tiếp tục bị thẩn vấn và bị đánh đòn 2 lần nữa nhưng chú vẫn vui vẻ lãnh nhận.Mỗi lần roi quật xuống, chú lại cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin thêm sức cho con chịu đau khổ vì Chúa". Ngoài ra chú còn bị phơi nắng và bị kềm kẹp nhưng vị anh hùng trẻ tuổi vẫn không sờn lòng, chứng tỏ một nghị lực phi thường và một đức tin hiếm có.

SỐNG KHỔ, ĐỒNG VINH

Sau khi bất lực trước ý chí sắt đá của Toma Thiện, quan truyền giam chú chung với cha Jaccard Phan. Hai cha con gặp nhau vui mừng hết sức. Chú Thiện được cha an ủi, khích lệ và ban bí tích hoà giải. Riêng cha Phan thì sung sướng hãnh diện có một người con tinh thần dũng cảm trong đức tin. Hai cha con cùng nhau cầu nguyện, nâng đỡ, trợ giúp lẫn nhau và quyết chí trung thành với đạo đến cùng.


Trước tinh thần bất khuất của 2 chứng nhân Chúa Kitô, quan quyết định lên án xử trảm cả hai. Bản án chú Thiện như sau: "Tên Thiện bị mê hoặc theo Gia-Tô, dẫu bị tra tấn cũng không bỏ đạo, nên nó phải chết giống như đạo trưởng của nó".


Bản án gửi về kinh đô. Gần một tháng sau, vua Minh Mạng mới châu phê và đổi thành án xử giảo. Có lúc nóng lòng chờ đợi, chú Thiện thưa với cha Phan: "Thưa cha, người ta cứ để cha con ta sống lâu mãi, sao không sớm cho cha con ta được tử đạo, để được kết hợp cùng Chúa muôn đời?". Chú cũng viết thư về gia đình vĩnh biệt cha mẹ, họ hàng và khuyên mọi người trung thành giữ vững đức tin.


Sáng ngày 21.09.1838, hai cha con chứng nhân Chúa Kitô cùng được dẫn ra pháp trường ở làng Nhan Biều, gần Quảng Trị. Khi đi ngang qua một quán ăn, viên đội chỉ huy cho 2 vị dừng chân, ăn uống theo thói quen dành cho tử tội. Cha Phan không dùng gì cả, chú Thiện thưa với cha: "Con cũng không ăn, để về dự tiệc Thiên Đường vĩnh phúc phải không cha?".


Tới nơi xử, chú Thiện quỳ xuống trước mặt cha, lính tháo gông, tròng dây vào cổ. Lệnh xử ban hành, họ kéo hai đầu dây thật mạnh, đầu vị tử đạo 18 xuân xanh gục xuống. Sau đó đến lượt cha Phan cũng bị xử như vậy.


Khác với các vị tử đạo trước, cuộc hành quyết nầy không có giáo hữu đi theo để xin an táng. Những lương dân gần đó đã chôn cất hai vị ngay tại pháp trường.


Năm 1847 thi hài vị tử đạo được cải táng về tôn vinh tại chủng viện Hội Thừa Sai Paris.


Ngày 27.05.1900 Đức Léo XIII đã suy tôn chủng sinh Toma Trần Văn Thiện lên bậc Chân Phước .


Ngày 19.06.1988 Đức Gioan Phaolô II suy tôn Ngài lên hàng Hiển Thánh.

Không có nhận xét nào: