Thứ Tư, 18 tháng 11, 2009

Mừng Ngày Nhà Giáo 2009

VietCatholic News (17 Nov 2009 09:58)

Toà Giám mục Kontum

56 Trần Hưng Đạo - Kontum - Email davitvn@gmail.com

Số 118/VT/’09/Tgmkt

MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO 2009
Kontum, ngày 14 tháng 11 năm 2009

Kính gởi: Quý Thầy Cô Công Giáo trong Gia đình Giáo phận Kontum

Nhân ngày nhà giáo, tôi xin gởi tới Quý Thầy Cô lời chào thân ái và lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu, “Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).

Tôi xin chia sẻ với quý Thầy Cô và qua quý Thầy Cô với các con em học sinh sinh viên trong Giáo phận chút tâm tình.

Với tư cách người mục tử Giáo phận, tôi xin thay mặt gia đình Giáo phận, cám ơn quý Thầy Cô và qua quý Thầy Cô, cám ơn tất cả những vị đã, đang truyền đạt cái chữ, cái nghĩa cho con em trong Giáo phận. Tôi rất say mê Thiên Chức nhà giáo. Lòng say mê này lại càng “tha thiết, mãnh liệt hơn” trong hoàn cảnh giáo dục hôm nay, một nền giáo dục tuy có nhiều phát triển nhưng lại có quá “nhiều vấn đề đáng tiếc”. Có người gọi đây là một nền giáo dục “khập khiễng”. Báo đài đã có nhiều phản ánh và phân tích. Đâu là lý do sâu xa? Tại sao nhiều thành phần ưu tú trong nước không được tham gia vào lãnh vực trọng đại đang gặp nhiều khó khăn chồng chất này, trong khi người nước ngoài, kể cả những người thuộc hàng ngũ được gọi là “thù nghịch của Đất Nước” lại được mở trường thoải mái, với cả hệ thống tiếng mẹ đẻ “hình như” được xếp xuống hàng thứ yếu? Phải chăng “Tôn Giáo vẫn còn được coi là thuốc phiện ru ngủ người dân?” Thử hỏi một nền giáo dục mà không có “Tôn Giáo” thì tương lai sẽ ra sao? Một con người chỉ được đào tạo cái tay, cái chân, cái đầu, cái óc mà không được giáo dục cái Tâm, cái Linh thì sẽ tạo ra những hình tượng gì? Rất tiếc, nhưng vẫn hy vọng mai đây vấn đề sẽ được thấy rõ hay đúng hơn sẽ được nhiều người vượt lên cái sợ tôn giáo kia để cánh cửa giáo dục sớm được mở rộng hơn.

Để phần nào bù đắp “cái chỗ lấn cấn đó”, người đời trông chờ vào cái Tài cái Đức của các Nhà giáo nói chung và của Nhà giáo có niềm tin tôn giáo nói riêng.

Nhà giáo cao cả lắm! Nghề giáo quan trọng lắm! Dân Việt ta trọng việc học của con em và rất quý mến Thầy Cô. Chả thế mà cha ông chúng ta đặt các thầy cô trước cả phụ huynh chỉ sau Đức vua. “Nhất tự vi Sư, bán tự vi Sư”: một chữ cũng là Thầy, nửa chữ cũng là Thầy! Nếu người ta nói “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, sao lại không thể nói “Nhà giáo hôm nay, Nhà Nước ngày mai”. Nhà giáo là những kỹ sư, những kiến trúc sư “xây dựng” con người công dân, các nhà lãnh đạo đất nước ngày mai. Nhà giáo có niềm tin tôn giáo như chúng ta lại càng cao quý và quan trọng đến thế nào cho đất nước! Xã hội có rất nhiều nhà giáo ưu tú, tài ba nhưng không phải tất cả đều có được cái lòng, cái tầm nhìn xuyên suốt vượt cả cái “cõi trần gian” như những nhà giáo có niềm tin tôn giáo. Với niềm tin một Thiên Chúa là Cha mọi người, nhà giáo Công giáo đến với các học sinh, với các sinh viên như thể đến với Chúa và phục vụ Chúa của mình. Nếu Thánh Vinh Sơn đệ Phaolô đã nói với các Nữ Tử Bác Ái “Người nghèo là Bà Chúa của các con”, chúng ta cũng có thể nói “Học sinh, sinh viên là Bà Chúa của các thầy cô”.

Quý Thầy Cô thân mến,

Hãy nhớ mình là nhà giáo có niềm tin tôn giáo! Hãy ý thức bản chất nhà giáo của người có niềm tin là “được sai đi loan báo Tin Mừng Yêu Thương, Tin Mừng Sự Thật, Tin Mừng Bình An” cho mọi người, cách riêng ở đây là cho học sinh, sinh viên cũng như cho các đồng nghiệp của mình (x. Mt 28). Đây là sứ mệnh cao cả, sứ mệnh truyền đạo của người môn đệ Chúa Kitô. Truyền đạo bằng chính “cách sống, cách hành nghề nhà giáo của mình” với trọn vẹn con tim và khối óc như Chúa Giêsu đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con” (Ga 13,35) hoặc “Chính anh em là muối cho đời… để thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời” (Mt 5,13-15).

Mỗi thầy cô là một nhà truyền giáo, một vị thừa sai. Ở đây không hiểu như người đời có nghĩa là một “cán bộ tuyền truyền” hay “mộ̣t người đi chiêu mộ tín đồ” mà là một nhà giáo mẫu mực, đạo đức, tận tụy với nghề, với học sinh, sinh viên. Nói theo ngôn ngữ Tin Mừng là sống nghề và yêu nghề nhà giáo “với hết lòng, hết sức, hết linh hồn cùng hết trí khôn của mình.” (Mt 22, 34-40).

Quý Thầy Cô thân mến,

Ngày nhà giáo năm nay trùng dịp Giáo Hội Việt Nam khai mạc Năm Thánh 2010 - mừng 350 năm (1659-2009) thành lập hai Giáo phận Tông Toà và 50 năm (1960-2010) thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, vào ngày 24.11.2009 tại Sở Kiện, thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội. Chúng ta chào mừng và sống Năm Thánh bằng trọn vẹn khối óc và con tim của nhà giáo đạo đức, tận tuỵ. Hy vọng đây cũng là dịp Nhà Nước Việt Nam sẽ xét lại chính sách “quản lý” các cơ sở giáo dục của các tổ chức Tôn Giáo cũng như tư nhân, cùng thực thi rộng rãi và đúng nghĩa chính sách “Xã Hội Hoá Nền Giáo Dục” ngõ hầu mọi người dân đều có cơ hội tích cực góp phần vào nền giáo dục đang “có nhiều vấn đề” như hiện nay.

Nguyện xin cho ý Chúa nên trọn nơi mỗi chúng ta.

Hiệp thông cùng tất cả quý Thầy cô, các học sinh, sinh viên và phụ huynh trong Giáo phận dâng lời tạ ơn Chúa cùng với lời cầu chúc thiết tha. Cầu chúc cho quý Thầy Cô chan hoà Ơn Trời để chu toàn Thiên Chức của mình thật tốt đẹp. Cầu chúc cho các em học sinh, sinh viên luôn là niềm vui, là niềm hạnh phúc cho quý Thầy Cô, cho gia đình và cho toàn Xã Hội.

Hiệp Thông

(đã ký và đóng dấu)

Micae Hoàng Đức Oanh
Giám Mục Giáo Phận Kontum.

Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2009

Các Thánh Tử Đạo

VietCatholic News (13 Nov 2009 05:52)
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO - CHỨNG NHÂN CỦA BA NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN
Trong khoa tu đức, người ta chia tử đạo ra thành 3 lọai: tử đạo đỏ (…), tử đạo trắng (…) và tử đạo xanh (…). “Tử đạo đỏ” là tử đạo theo nghĩa hẹp, tức là đổ máu vì niềm tin của mình. Các thánh tử đạo Việt Nam thuộc hàng tử đạo theo nghĩa hẹp này, tức là “tử đạo đỏ”. Việt Nam hiện đang tạm giữ kỷ lục về con số các vị hiển thánh tử đạo: 117 vị cộng với một vị chân phước là thánh Anrê Phú Yên. Dĩ nhiên, đó chỉ là con số các vị được tuyên phong, còn nếu nói về con số chưa được tuyên phong thì cao gấp ngàn lần (khoảng 300.000 người, nghĩa là gấp 2 lần số giáo dân giáo phận Phan Thiết chúng ta). Cũng cần nói thêm, truyền thống Giáo hội vẫn tin rằng tất cả các thánh sau khi chết vẫn phải thanh luyện ít nhiều, ngoại trừ các thánh tử đạo theo nghĩa hẹp. Ngay sau khi chết, các ngài được diễm phúc lên thẳng thiên đàng liền mà không cần phải qua lửa luyện tội nữa.

Trở lại với khái niệm tử đạo. Thực ra từ ngữ “tử đạo” ban đầu có nghĩa là làm chứng. Như vậy người tử đạo có nghĩa là người làm chứng, tức “chứng nhân”. Thế thì ta có thể tự hỏi rằng các thánh tử đạo là chứng nhân của những điều gì ?

- Trước hết, các ngài là những chứng nhân của đức tin, một đức tin kiên trung:

Đức Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng: “Anh em hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp anh em cho công nghị, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Anh em sẽ bị điệu ra trước vua chúa và quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết” (Mt 10,17-18).

Trải qua 300 năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã sống chính kinh nghiệm bị bách hại mà lời Chúa đã tiên báo. Hơn mười vạn tổ tiên chúng ta đã đổ máu mình ra vì Chúa Kitô. Các ngài đã chịu đủ mọi cực hình: bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà cửa, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc: chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt,… Tuy nhiên điều đáng nói là mặc dù các ngài đã bị tước đoạt quyền sống, nhưng vẫn không chối bỏ đức tin. Đến nỗi vua chúa, quan quyền, những kẻ bày ra đủ mọi cực hình tàn bạo để hành hạ các ngài, phải sững sờ kinh ngạc và kính phục lòng tin sắt đá của các ngài.

Các ngài vui lòng đón chịu mọi cực hình đau đớn và hiên ngang tiến ra pháp trường nhận cái chết thương đau để minh chứng cho niềm tin và lòng trung thành của mình đối với Thiên Chúa và với Đức Kitô. Cái chết của các ngài làm sáng lên đức tin anh dũng kiên trung. Tuy miệng lưỡi đã im tiếng, nhưng sự việc còn vang dội sâu xa, các ngài như vẫn đang nói, đang giảng thuyết; lời rao giảng của các ngài vẫn vượt không gian thời gian, như một kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện:

“Chẳng một lời, một lẽ

Chẳng nghe thấy âm thanh

Mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu

Và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 18,45).

- Thứ đến, các ngài là những chứng nhân của lòng mến, một lòng mến nồng nàn:
Đức Thánh Cha GP II, trong Tông sắc Mầu Nhiệm Nhập Thể đã viết: “Ghi niệm về các vị tử đạo là một dấu hiệu bền vững cho chân lý về tình yêu của Kitô giáo,….. Vị tử đạo, đặc biệt vào thời đại của chúng ta, là dấu chỉ tình yêu lớn lao nhất, thâu tóm mọi giá trị khác” (MNNT, 13).

Nếu việc tử đạo là minh chứng cho lòng tin, thì tình yêu chính là động lực của việc tử đạo. Các ngài sẵn sàng đón nhận mọi cực hình, mọi gian lao đau khổ, và cuối cùng là cái chết, không phải vì các ngài có máu anh hùng hảo hán, cũng không phải vì muốn được nổi tiếng…, nhưng là vì tình yêu đối với Đức Kitô. Vì tình yêu Đức Kitô, các ngài đã sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì mình có, kể cả mạng sống. Vì tình yêu Đức Kitô, các ngài đã khao khát hiến thân từng giây phút đời mình cho Thiên Chúa và cho tha nhân: “Khi tử đạo, người môn đệ đồng hóa với Thầy mình, Đấng đã tình nguyện đón nhận cái chết để cứu độ thế giới. Và người môn đệ nên giống Người trong việc đổ máu” (LG, 42). Trong thư gởi các chủng sinh, thánh Phaolô Lê bảo tịnh đã viết: “Vì cháy lửa yếu mến Chúa, tôi thà chịu chết và chịu phân thây để chứng tỏ lòng tôi yêu mến Chúa”.

Quả thế, các ngài đã không xem việc tử đạo như là một cực hình đau khổ, nhưng lại coi đó như một quà tặng tình yêu mà Thiên Chúa đã ưu ái ban phúc cho mình, nên cương quyết dành lấy nhành lá vạn tuế khải hoàn. Chính vì thế, Giáo Hội luôn coi việc tử đạo như một ân huệ lớn lao và là một bằng chứng cao cả về đức ái.

- Sau nữa, các ngài là những chứng nhân của niềm hy vọng, một niềm hy vọng sáng ngời:

Bị lăng nhục, hành hạ, tra tấn và bị kết án tử, nhưng các vị tiền bối tử đạo vẫn khẳng khái hiêân ngang, vui tươi, bình an và chứa chan hy vọng về một cuộc sống bất diệt. Các ngài nhẫn nại và can trường trong đau khổ vì đã có được Đức Kitô là nền tảng đích thực của niềm hy vọng hằng sống: “Các con hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho các con ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12). Thánh Bảo tịnh đã nói lên điều xác tín đó: “Giữa cơn bão táp của bách hại, tôi đã một đã thả một cái neo vào tận ngai Thiên Chúa, đó là niềm hy vọng sống động trong lòng tôi”. Đau khổ và cái chết chỉ là cuộc thử thách và thanh luyện để Thiên Chúa đón nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.

“Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”, các vị tử đạo đã trở nên chứng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết, là dấu chỉ hy vọng cho thế giới, khi lấy chính cái chết của mình diễn tả chân lý về sự sống bất diệt và hạnh phúc trường cửu ở nơi Thiên Chúa.

(Xin được mở ngoặc ở đây một chút: Có người nói rằng làm thánh tông đồ, thánh hiển tu, thánh giáo hoàng, giám mục, thánh đồng trinh… thì khó, chứ còn làm thánh tử đạo thì dễ. Vì chỉ cần chấp nhận để cho người ta chém một cái là bay vèo lên đài vinh quang dành cho các thánh tử đạo. Sự thật có dễ như thế không ? Thực ra cả cuộc đời, các ngài đã sống tinh thần tử đạo rồi. Đức tin, đức cậy, đức mến của các ngài đã được tôi luyện nhiều trong cuộc sống rồi. Vì nếu cả cuộc đời không tin Chúa hay đức tin non yếu, thì đến lúc gặp gian lao, tù đày, tra tấn, các ngài sẽ không giữ vững được đức tin đâu. Nếu cả cuộc đời chỉ yêu mến thế gian, xác thịt, tiền tài, danh vọng… thì đến lúc bị đưa ra đọan đầu đài, không đủ sức mạnh để chọn lựa Chúa đâu. Cả cuộc đời không biết hy sinh là gì, thì đến lúc đau khổ thử thách tới, buông súng đầu hàng ngay là cái chắc, chứ chưa nói đến cái chết).

“Máu các vị tử đạo là hạt giống đức tin”. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã trở nên hạt giống được gieo vào lòng đất, chịu mục nát, thối rữa, để có thể trổ sinh vô số bông hạt đức tin. Các ngài là những chứng nhân đã gieo hạt giống ân sủng trong nước mắt, để hôm nay hứa hẹn một mùa thu hoạch dồi dào. Tất cả những gian lao đau khổ, máu và nước mắt của các vị tử đạo hướng đến mùa lúa vàng của Thiên Chúa, trên cánh đồng Giáo Hội: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo. Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv125,5-6).

Ngày nay, Cây Đức Tin của Giáo Hội Việt Nam đã đâm rễ sâu trong lòng đất Việt, được nuôi dưỡng bằng mầm đất thấm máu các vị tử đạo, cây đó đang lớn mạnh, cành lá sum xuê, hoa trái dồi dào, khác nào cây trồng bên suối nước được diễn tả trong sách Khải huyền: “Những chòm cây hằng sống, có quả mười hai lần, mỗi tháng một lần”.

Là con cháu các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta đã sống đức tin, đức mến và đức cậy như thế nào ? Chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là con cháu các ngài chưa ?

LM. Giuse Nguyễn Thành Long

Thứ Năm, 12 tháng 11, 2009

Chúc Mừng Trung Tâm CENLET

Công ty TNHH Ân Phong và gia đình Nguyễn Văn Thông
chúc mừng Trung Tâm Ngoại Ngữ CENLET
kỷ niệm 20 năm thành lập, 1989-2009







Lê Văn Gioang là trưởng nam của Bà Lý - Ông Tám, thuộc chi Ông Nguyễn Văn Trung
Xin xem gia phả chi tộc Ông Trung tại đường dẫn dưới đây:


Thứ Ba, 10 tháng 11, 2009

Nghĩ Về Những Người Đã Khuất

VietCatholic News (09 Nov 2009 09:19)

NGHĨ VỀ NHỮNG NGƯỜI ĐÃ KHUẤT NHÂN THÁNG CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Có lẽ chẳng ai thích nghe nói đến những chuyện xui xẻo, nhất là chuyện bệnh tật và chết chóc. Tuy nhiên, dù muốn hay không chúng ta cũng phải chấp nhận rằng con người bản chất vốn mỏng dòn và dù có niềm tin hay không thì đều phải chấp nhận cái thực tại Sinh-Tử như người ta thường nói: Sinh-Lão-Bệnh-Tử. Chúng ta bước vào tháng 11, theo niềm tin Công giáo của chúng ta, đây là tháng giành riêng để tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã khuất. Xin mạo muội chia sẻ một vài cảm nghĩ nhân tháng Các Đẳng Linh Hồn.


Trong những ngày Tu Nghị Tỉnh Dòng Ngôi Lời tại Paraguay vừa qua để chuẩn bị bầu bán Bề trên và các vị cố vấn Tỉnh Dòng nhiệm kỳ mới, một anh em linh mục người Paraguay tướng tá rất mập tròn khoẻ mạnh tự nhiên cảm thấy hơi choáng váng nên báo với các anh em xin chuyển đến bệnh viện ngay lập tức. Khi đến bệnh viện thì người anh em linh mục này đã bị dựt méo miệng, mất cảm giác hoàn toàn và trong trạng thái hôn mê. Bác sĩ chẩn đoán do cao huyết áp và bị stroke nên mới dẫn đến tình trạng này. Cũng may là đến bệnh viện kịp thời và được sự can thiệp của y khoa nên người anh em này đã được điều trị tốt dù đến giờ vẫn chưa nói được lời nào.

Tôi muốn đưa ra một dẫn chứng cụ thế như thế để nói rằng Sinh-Lão-Bệnh-Tử là chuyện khó ai có thể đoán trước được. Có thể hôm nay chúng ta rất khoẻ mạnh nhưng chẳng biết ngày hôm sau chúng ta sẽ thế nào dù chúng ta có những dự định rất tốt đẹp cho tương lai. Nói dại như thế nhưng cũng là để cảnh báo cho những ai luôn tự hào cho rằng mình có thuốc cãi lão hoàn sinh, có bảo hiểm y tế tối tân, có một tài sản kết sù thì không sợ gì cái chết. Hãy nhìn cái gương trước mắt về ông vua nhạc Pop nổi tiếng thế giới Michael Jackson với đội ngũ bác sĩ chuyên nghiệp, với tài sản kếch sù mà có mua được sự sống không? Ông ta đã đem được gì vào chiếc quan tài nhỏ bé của ông?

Tôi đã từng chứng kiến những cái chết oan uổng và bất ngờ của những anh em trong Dòng khi tôi còn ở Việt Nam và tại Paraguay này. Tôi cũng từng cử hành nhiều lễ an táng và làm phép xác cho đủ hạng người ở vùng đất truyền giáo này. Tựu trung một điều, đứng trước cái chết, con người đành bất lực, chỉ biết khóc, và… khóc. Nếu những người còn sống, những người thân và bè bạn có làm được gì cho người quá cố cũng chỉ biết tham dự lễ tiễn biệt, thắp lên những nén hương, dâng lên những lời cầu nguyện và hàng năm vào những ngày giỗ kỵ thì xin một thánh lễ cầu cho người đã khuất. Thế thôi!

Những người không có niềm tin thì cho rằng chết là hết. Còn đối với những người Công giáo chúng ta, thì chết chưa phải là hết nhưng là bắt đầu một cuộc sống mới như thánh Phaolô Tông Đồ đã nói. Bởi thế, tháng 11 là tháng giành riêng để cầu nguyện cho ngững người đã khuất, trong đó có những người thân yêu của chúng ta.

Khi còn học phổ thông trung học, tôi được học lớp chuyên và trong lớp tôi chỉ có tôi và một bạn học nữ (giờ đã kết hôn với một doanh nhân bên Phật) là người Công giáo. Mặc dù giữa chúng tôi không có những cuộc tranh luận gay gắt về tôn giáo nhưng cũng có những tranh cãi nho nhỏ về một số nghi thức kính nhớ tổ tiên. Những bạn học của tôi cho rằng người Công giáo quên mất cội nguồn và không biết kính nhớ những người đã khuất. Người bạn nữ Công giáo của tôi thì không bao giờ biểu lộ hay có phản ứng về những tranh luận về tôn giáo nên tôi phải đơn thương độc mã khẩu chiến với họ. Dĩ nhiên chẳng có bên nào thắng cuộc cả vì bên nào cũng có cái lý. Vì cũng chính nhờ những cuộc tranh luận thời học sinh ấy mà tôi cảm thấy “khôn ra” và quyết “nuôi hận” để trở thành một vị linh mục để sau này có dịp “rửa hận” với chúng bạn. Thế là là đã bước vào Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời và giờ đây dẫu không còn có thời gian và cơ hội để tranh luận với chúng bạn về đề tài tôn giáo và kính nhớ tổ tiến nhưng tôi được sống bên những người nghèo ở vùng truyền giáo để nói với họ về Chúa, về Các Thánh và về Các Linh Hồn. Chính nhờ được sống với những người dân chất phát ở đây mà mình có cơ hội được rong ruổi và chia sẻ những buồn vui trong sứ vụ truyền giáo và những ngày vừa qua tôi được dịp nói với họ về những người đã khuất.


Trở lại câu chuyện về Tháng Các Đẳng Linh Hồn. Tôi thường nghe người người ta nói nghĩa tử là nghĩa tận. Một chị Việt Nam sống ở Paraguay gần 35 năm có một lần tâm sự với tôi rằng chị muốn về Việt Nam và được chết ở đó ấm cúng hơn, chứ ở bên này họ coi cái chết nhẹ quá. Ở đây nếu một người chết thì sau 24 giờ phải đem chôn giống như con gà, con vịt rồi thôi. Nếu may có linh mục gần đó thì ngài tới làm nghi thức an táng vì ở đây họ không có thói quen xin cử hành lễ an táng, chỉ có những nhân vật quan trọng hay những người cộng tác viên của giáo xứ hay giáo điểm truyền giáo thì họ mới yêu cầu thánh lễ an táng. Tôi có nói đùa với chị rằng nếu làm đám tang lớn với biết bao người tham dự và ăn uống linh đình, rồi nợ một đống tiền so với đám tang nhỏ chỉ có lèo tèo vài người thì người chết có biết gì đâu! Chị ta cười và nói với tôi rằng chị thấy đám tang ở Việt Nam ấm cúng hơn, và cái chết của một người dù có nghèo mạt rệp vẫn đầy đủ kèn trống và được chôn cất tử tế. Điều này thì chị có lý. Tôi đã chứng kiến nhiều đám tang ở đây mà thấy mủi lòng cho thân phận làm người. Hai vị linh mục truyền giáo cùng Dòng với tôi qua đời đột ngột vào năm 2007 và 2008 mà đám tang trông thật giản dị cứ y như là đám tang của một em bé mới sinh vậy. Cũng một kiếp người mà ở nơi này khác, ở nơi kia lại khác nhau. Biết làm sao được vì đó là nét văn hoá riêng của mỗi vùng, mỗi dân tộc.

Sáng thứ Hai ngày 2 tháng 11 vừa qua là ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn, tôi cùng những người dân chất phát hiệp dâng thánh lễ tại Nghĩa Trang để cầu cho các tín hữu đã qua đời. Người ta nói với tôi đây là lần đầu tiên họ tham dự thánh lễ ngoài nghĩa trang kể từ ngày tôi chuyển về đây vì trước đây các linh mục khác không bao giờ cửa hành như thế. Dù là buổi sáng thứ Hai với biết bao công việc đầu tuần và trời nóng oi bức với nhiệt độ 44 độ C, người ta cũng đã kéo đến nghĩa trang rất đông từ nhiều nơi khác nhau. Phóng viên truyền hình của thành phố cũng đến để phỏng vấn tôi và hỏi tôi về ý nghĩa của ngày cầu nguyện cho các linh hồn. Họ cũng hỏi tôi về cách thực hành đạo của người Công giáo Việt Nam nói riêng và của một số nước Á châu nói chung thế nào. Mặc dù không được chuẩn bị trước các câu hỏi nhưng tôi cũng cố gắng trả lời gói gọn trong 10 phút đồng hồ để họ hiểu biết thêm về ý nghĩa của tháng 11, tháng giành riêng để cầu nguyện cho các linh hồn. Ông Tỉnh trưởng sau khi họp bàn giao đầu tuần cũng vội vã đến tham dự thánh lễ và chính ông là người mang theo chiếc đàn ghi-ta để đệm các bài hát trong thánh lễ. Trong bài giảng lễ, tôi chia sẻ và nhắc nhở họ đến thân phận mỏng giòn của kiếp làm người và cố gắng thực thi các giới răn của Chúa vì “lời lãi được cả thế gian mà mất mạng sống thì có ích gì” (Xc. Mc 8,36). Những người dân chân quê thật thà chất phát đã khóc nhiều khi tôi gợi lại cho họ những điều đẹp đẽ mà những người thân của họ khi còn sống đã làm cho họ. Tôi cũng chia sẻ cho họ về giới răn thứ 4 là Thảo Kính Cha Mẹ không chỉ là khi còn sống mà khi cha mẹ và những người thân yêu đã qua đời thì chúng ta cũng phải tiếp tục thực thi bổn phận đó qua việc tham dự thánh lễ để cầu nguyện cho các linh hồn, viếng mộ và làm vệ sinh các phần mộ của những người đã khuất bởi vì các linh hồn không còn khả năng cầu nguyện sau khi họ đã lìa cõi đời. Sau thánh lễ, các bà goá chạy lại nói với tôi những lời nửa Guarani, nửa Tây Ban Nha “Pa’i, nde homilía iporã” (Cha ơi, bài giảng của cha hay quá!). Mấy bà goá thường tốt lành như vậy và cũng chính nhờ mấy bà goá mà cuộc sống của những linh mục được khích lệ thêm.

Nhiều người nói dân Nam Mỹ nói chung và dân Paraguay nói riêng chỉ giữ đạo qua các bí tích, nghĩa là đa số chỉ tham dự thánh lễ 3 lần trong đời là Rửa Tội, Rước Chúa Lần Đầu và Thêm Sức. Điều đó cũng đúng một phần vì trong những dịp lễ này người ta tham dự rất đông và sốt sắng; nhưng có lẽ vì ở đây thiếu nhân sự là các linh mục và tu sĩ nam nữ, thiếu sự hướng dẫn và huấn luyện đời sống tâm linh nên người ta không hiểu biết những điều họ làm. Thánh Kinh đã nói là nếu không biết mà làm thì không có tội. Quan sát những người dân những người dân chất phát ngây thơ ngồi bên bia mộ để than khóc người quá cố làm tôi chợt nhớ đến những người thân đã qua đời của tôi bên quê nhà và bỗng dưng những dòng lệ từ hai khoé mắt lại rơi xuống. Tôi vội lấy áo Alba lau nước mắt và thầm thĩ dâng lời cầu nguyện: Chúng con cậy vì Danh Chúa Nhân Từ cho Các Đẳng Linh Hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

Paraguay, ngày 9 tháng 11 năm 2009 – Tháng Các Đẳng Linh Hồn

Lm. Trần Xuân Sang, SVD.
Nguồn: http://www.vietcatholic.org

Thứ Năm, 5 tháng 11, 2009

Tháng Mười Một

Trong năm có mười hai tháng, ngày tháng nào cũng có cầu nguyện cho các linh hồn, riêng tháng mười một lại là tháng nhớ nhất trong năm, tháng của các linh hồn. Có lẽ lời thánh nữ Monica vẫn âm vang đâu đó: “Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ” không chỉ nhớ về mẹ mà còn nhớ những người đã khuất.

Nhờ vào mầu nhiệm các thánh thông công mà những hy sinh trong tháng này dành cho các linh hồn cách đặc biệt hơn. Trọng tâm bao giờ cũng là thánh lễ, mỗi lễ dâng hàm chứa trong đó bao tâm tình của nhiều người hướng về dâng lên. Tâm tình của những người con mất mẹ, vắng cha, tâm tình của những con người yêu thương nhau, không còn nhau trong đời, tâm tình của những anh chị em không còn nhau hoặc chưa kịp làm gì để trợ giúp nhau.

Những tâm tình kết lại trong mỗi hy sinh, nhịn một bữa ăn, làm hòa với nhau những người còn sống, chia sẻ với những người thiếu ăn, khổ đau, lãnh nhận những bổn phận trong tinh thần cầu nguyện hy sinh. Có biết bao cách để làm nên lễ vật hy sinh cầu nguyện cho người đã khuất.

Tháng mười một, người người tuôn về các nghĩa trang, ở đó có những người thân của mình, có những người thân quen, đến để đặt vài cành hoa, thắp lên những nén nhang cho người thân và những người bên cạnh, đọc những câu kinh, những hình ảnh ấy gợi lên biết bao tình thương mến, xa mặt nhưng không cách lòng, đã khuất mà không chết trong tâm khảm của những người còn sống. Vẫn hòa quyện trong làn hương, lời kinh dâng lên, đối với tâm tình ấy, không ai nghĩ người thân của mình đã lìa xa.

Nhớ đến người đã khuất như là để sống lại những lời khuyên, sửa mình lại trong những sai trái, ướp mình lại trong những hy sinh. Đó là làm hồi sinh những nỗ lực của người đã khuất chưa kịp hoàn tất trong cuộc đời mình, những người sống đang cố gắng hoàn thành. Không chỉ giúp nhau khi còn sống mà còn giúp nhau ngay khi không còn. Nỗ lực của những cố gắng này phải chăng đang làm đậm nét của nền văn hóa tình thương, khi chính tình thương ấy biểu lộ xa mặt nhưng không cách lòng.

Nhớ về người đã khuất cũng là nhớ về tháng ngày cũ như muốn sống lại thời còn có nhau trong đời. Những kỷ niệm buồn vui, những ngày bên cạnh nhau để nghe trong đó bao tình tự của năm tháng gởi trao và nhận ra rằng trong đời có một triết lý để sống: “Rồi sẽ qua tất cả nhưng tình yêu vẫn tồn tại” và từ ấy cuộc sống bao dung, đại lượng hơn. Có lẽ thế mà trong nét văn hóa Việt Nam vẫn còn mang tính hiếu hòa để còn sống với nhau.

Có lẽ tháng mười một gợi nhắc rất nhiều về bài học cho người sống, những bài học từ vở kịch “tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ nhắc đến trong lời của trông coi nghĩa trang: “hỡi những ông lớn bà lớn, khi chết ông bà cũng sống dưới quyền tôi”. Hơn thua trong đời có được gì đâu ngoài năm ba tấc đất, sống với nhau cho đàng hoàng tử tế, sao chẳng sống để chết đi còn có nhau trong đời.

Nhiều lắm những bài học, từ tình thương cho đến những cuộc đời. Tháng mười một về, hãy thắp những nén nhang lòng để nghe đời rộn rã mời gọi: “sống sao cho nên người và nên thánh”.

Xin Chúa thương đến các linh hồn và đến chúng con.

L.m Giuse Hoàng Kim Toan

Gia Phả Nguyễn Thị Thơm - Nguyễn Văn

Gia phả của Nguyễn Thị Thơm – Nguyễn Văn:
(Nguyễn Thị Thơm là con gái út của Bà Tư, thuộc chi Bà Nghị - Ông Liệu)
Các con : - Nguyễn Hồng Châu
- Nguyễn Thị Hồng Nga
- Nguyễn Hồng Vinh
- Nguyễn Thị Hồng Đào
Hiện ở Ấp Gia Lào – Xã Suối Cao – Xuân Lộc – Đồng Nai ĐT : 0613753098

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2009

Viếng Mộ Chi Tộc Ông Nguyễn Văn Quy

Bà con Nguyễn Tộc viếng khu mộ chi tộc ông Nguyễn Văn Quy
tại nghĩa trang Pleiku, ngày 17.10.2009



Mộ ông Nguyễn Văn Quy,
và các mộ ông Nguyễn Bính (con trai),
Nguyễn Thị Vân Lập - Ái Nhơn - vô danh (cháu nội)


Mộ bà Phạm Thị Có (vợ ông Bính)



Xin bấm vào đường dẫn dưới đây để xem thêm ảnh:
http://picasaweb.google.com/tramtinhnguyen/ViengMoNguyenToc?feat=directlink